VỀ MỘT “HOÀNG HẬU ĐỎ”
VỀ MỘT “HOÀNG HẬU ĐỎ”
Hơn chục năm trước, trong quá trình đi tìm tư liệu về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, tôi xin gặp bà Ngô Thị Huệ (dì Bảy Huệ) phu nhân cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tại nhà riêng. Từ năm 22 tuổi, là Phó Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long, bà trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tại quận Châu Thành và thị xã Vĩnh Long. Trước khi nghỉ hưu, dì nguyên là Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương. Là một trong những người đề xướng ý tưởng xây dựng Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ, dì Bảy còn là Tổ phó Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ gồm 12 thành viên. Sau một thời gian miệt mài sưu tầm và nghiên cứu biên soạn, Tổ sử hoàn thành công trình “Lịch sử Phụ nữ Nam Bộ kháng chiến” với hơn 500 trang, được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 2006. Lúc bấy giờ, dẫu đã vượt ngưỡng cửu thập, song dì Bảy hãy còn rất mẫn tiệp. Nghiêng mái đầu trắng xóa như mây, dì chậm rãi nhớ lại.
…Từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 tại làng Tân Thới Nhứt, Bà Điểm, tỉnh Gia Định (nay thuộc huyện Hóc Môn, TP. HCM) dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ. Với sự tham dự của các đồng chí Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Lê Duẩn… Hội nghị chỉ rõ “làm cách mạng giải phóng dân tộc” bằng hình thức “bạo động” để giành chính quyền. Từ sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Trung ương, Xứ ủy Nam Kỳ rốt ráo chuẩn bị phát động cuộc khởi nghĩa. Quần chúng cách mạng khắp nơi bí mật rèn giáo mác, luyện tập võ nghệ, học chiến thuật du kích, cùng với cách nhồi thuốc nổ tự tạo, v.v… Bấy giờ, ở các tỉnh như: Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho… mỗi làng đều có một tiểu đội du kích, trang bị tuy hãy còn rất thô sơ, nhưng ai nấy đều ít nhiều được huấn luyện.
Tháng 7-1940, Xứ ủy tổ chức hội nghị gồm đại biểu các tỉnh, thành toàn xứ tại Mỹ Tho, để nhận định tình hình và xem xét thấu đáo sự chuẩn bị. Hội nghị giao quyền quyết định thời gian khởi nghĩa cho Thường vụ Xứ ủy và cử đồng chí Phan Đăng Lưu ra Bắc báo cáo, đồng thời tham dự Hội nghị Trung ương lần thứ 7. Nhận thấy tình hình chưa thật chín muồi, Trung ương Đảng yêu cầu hoãn, nhưng khi chỉ thị chưa về tới Sài Gòn thì cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã nổ ra vào lúc nửa đêm ngày 22, rạng sáng ngày 23-11-1940.
Theo kế hoạch, khởi nghĩa bắt đầu trước tiên ở Sài Gòn, khi đèn điện tắt và súng nổ sẽ là hiệu lệnh chung cho các địa phương tiến hành. Tuy nhiên, do có nội phản, nhiều cán bộ lãnh đạo chủ chốt bị bắt ngay trước giờ G. Mặc dù vậy, ở các tỉnh xa và vùng phụ cận Sài Gòn, cuộc khởi nghĩa vẫn diễn ra như đã định. Ở những nơi đó, nữ giới làm liên lạc, tiếp tế, cứu thương, đồng thời tham gia cướp chính quyền. Nhiều chị trực tiếp chỉ huy cuộc khởi nghĩa.
Tại quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (nay là huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An), trong Ban lãnh cuộc khởi nghĩa có chị Nguyễn Thị Bảy, quê ở làng Vĩnh Hựu, tổng Hòa Đồng Trung, quận Gò Công, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang). Nhà nghèo, chị phải đi làm mướn, đốn củi ở Rừng Sác để kiếm sống. Được anh Chín Nẩy (Nguyễn Văn Ớt) dìu dắt và giác ngộ lòng yêu nước, chị đi theo con đường cách mạng. Họ trở thành vợ chồng và là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Vợ chồng chị tích cực vận động nông dân, bày cách cho bà con đấu tranh với điền chủ đòi tăng tiền công cấy, công gặt… Các tổ chức Nông hội, Hội tương tế, từ làng Phước Lại lan ra các làng lân cận, như Long Đức Đông, Long Hậu Tây, đến mức hồi đó cả ba làng này được tụi Tây mệnh danh là “Khu vực đỏ”.
Nhờ giỏi giang và có uy tín, chị Bảy được chỉ định vào Quận ủy Cần Giuộc. Năm 1936, chị là Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Chợ Lớn và làm Bí thư Quận ủy Cần Giuộc, Ủy viên Ban chấp hành Hội phụ nữ Dân chủ tỉnh Chợ Lớn. Nhận lệnh của Xứ ủy chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, đầu tháng 11-1940, Ban khởi nghĩa quận Cần Giuộc được thành lập tại đình Phước Lại, gồm 5 đồng chí: Nguyễn Thị Bảy - Trưởng ban, Trần Chí Nam, Nguyễn Văn Ớt, Trần Phấn Đấu (Ba Đấu) và Nguyễn Văn Y (Năm Y). Cùng với chồng (anh Chín Nẩy) phụ trách tổng Phước Điền Hạ, riêng chị Bảy trực tiếp lãnh đạo khởi nghĩa ở làng Phước Lại. Các anh Trần Chí Nam và Năm Y nắm tổng Phước Điền Trung và Phước Điền Thượng. Còn anh Ba Đấu chịu trách nhiệm liên lạc với Tỉnh ủy Chợ Lớn. Bấy giờ Quận ủy Cần Giuộc chỉ có 7 chi bộ Đảng, nhưng có tới 20/25 làng lên kế hoạch nổi dậy khởi nghĩa.
Đúng giờ hẹn, mặc dù chờ mãi vẫn không thấy hiệu lệnh chung, ngóng về Sài Gòn thấy điện vẫn sáng nhưng không có tiếng súng nổ. Chấp hành lệnh của Xứ ủy, nửa đêm, Ban khởi nghĩa vẫn lãnh đạo các làng nổi dậy. Cánh quân do chị Bảy chỉ huy dũng mãnh xông lên chiếm đồn địch, cướp súng, phá tề, lập chính quyền cách mạng. Nghĩa quân chia làm nhiều bộ phận tỏa đi vây nhà Hương trưởng Tích, Hương hào Kiên; đốt Nhà việc Phước Lại. Tại đây, ta làm chủ tình hình được hơn ba ngày. Khắp nơi, quần chúng nổi trống, mõ, phá đường giao thông, cắt dây điện, đốt hồ sơ sổ sách… Lần đầu tiên lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện trong cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ, đã làm nức lòng người.
Hôm sau, thực dân Pháp cho lính mã tà vào Phước Lại, chúng đốt nhà chị Bảy, nhà anh Trần Chí Nam…, bắt đi một số người và bắn chết người ở ngay ấp chợ để uy hiếp ta. Trong số những cán bộ bị bắt và bị địch sát hại có anh Nguyễn Văn Ớt - Quận ủy viên Cần Giuộc, chồng chị Bảy. Nén nỗi đau đứt ruột, chị vẫn chỉ huy lực lượng khởi nghĩa cầm cự thêm 15 ngày, rồi mới chịu rút quân về rừng Sác. Đây là một chủ trương đúng đắn và sáng suốt. Về sau, trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ta đều dựa vào rừng Sác làm căn cứ, chiến đấu lâu dài.
Đáng chú ý là trên đường đưa nghĩa quân tiến vào rừng Sác, khi đến rạch Gần, gặp ghe tuần tra của Hương quản Tuấn và Hương hào Ngã từ Phước Hiệp đi ra, chị Bảy và anh Nam mưu trí chỉ huy anh em đoạt được súng. Có thêm vũ khí, các đồng chí ta quyết định quay trở lại chiến đấu.
Ngày 14-12-1940, hai đồng chí Nguyễn Thị Bảy và Trần Chí Nam rút về gần bến đò Long Đức Đông (cách thị trấn Cần Giuộc 1km) thì gặp một toán lính lê dương đi càn. Hai bên nổ súng, nhưng tương quan lực lượng địch mạnh và đông hơn, anh Nam hy sinh, còn chị Bảy vẫn anh dũng chống trả và ráng hủy hết tài liệu trước khi bị bắt. Liên tiếp mấy ngày sau, thực dân Pháp bắn giết và lùng sục bắt bớ hầu hết các đồng chí có vai trò quan trọng lãnh đạo khởi nghĩa. Tất cả đều bị xử tử hình hoặc đày ra Côn Đảo và các nhà tù khác. Nhiều nhà cửa của đồng bào và nghĩa quân ở Phước Lại, Phước Vĩnh Tây, Long Đức Đông đều bị giặc đốt trụi.
Tài tháo vát và khí phách anh hùng của người phụ nữ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ không chỉ lan truyền ở Cần Giuộc và khắp tỉnh Chợ Lớn mà ngay cả khi sa vào tay giặc, chị Bảy vẫn bình tĩnh và gan dạ. Trên đường địch dẫn giải từ Cần Giuộc về bót Polo, Chợ Lớn (nay thuộc Quận 5, TP. HCM), chị bị chúng đánh đập rất dã man, máu me đầy người. Không chút ngần ngại, chị lấy máu quệt vào một tên lính rồi thản nhiên nói, tôi muốn các người thấy chúng ta đều máu đỏ da vàng, đều là người Việt Nam, tại sao lại nỡ hại nhau? Mỗi lần bị kẻ thù tra tấn, nhục hình, chị trừng mắt nhìn tụi lính, giọng đanh thép: “Tụi bay là quân cướp nước và bán nước, nhất định sẽ bị những người cộng sản chúng tao đánh đổ!”. Trước hành động bất khuất, kiên cường ấy, bọn cai ngục đành bó tay, chúng kiêng nể gọi chị là “Hoàng hậu đỏ”. Còn các đồng chí trong tù thì tôn vinh gọi chị Bảy là “Bà cố Hỷ” tài giỏi, vì bất cứ nhiệm vụ khó khăn nào chị cũng làm được và làm giỏi.
Khi chuyển sang khám Phú Mỹ, nơi biệt giam các nữ tù nhân chờ ngày đưa ra tòa đại hình, chị Bảy bị giam chung với chị Nguyễn Thị Minh Khai - Xứ ủy viên, Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Cả hai chị đều bị thực dân Pháp kết án tử hình. Sáng ngày 26-5-1941, chúng đưa chị Bảy cùng bốn đồng chí: Phan Văn Châu (Hai Châu), Nguyễn Văn Đang (Tư Đang), Trương Văn Lương và Lê Văn Có, ra xử bắn ở sân banh (bóng đá) Cần Giuộc. Bữa đó người dân trong quận xôn xao, đồng bào các giới kéo đến rất đông, đến nỗi tụi lính mã tà gần như bất lực. Từ trên xe bước xuống, đĩnh đạc với mái tóc búi cao gọn ghẽ, chị Bảy vận bộ đồ lĩnh đen, cổ choàng khăn bông trắng. Mắt nhìn thẳng, chị hiên ngang đi giữa hai tên sen đầm. Chúng trói chị Bảy vào cột giữa, hai bên là các đồng chí. Một vị linh mục tiến đến xin rửa tội, chị Bảy lắc đầu. Nhưng khi nghe cha cố hỏi có nhắn nhủ gì cho gia đình không, chị liền nhân cơ hội nói to kêu gọi đồng bào hãy đoàn kết, ráng đấu tranh đánh đuổi đế quốc Pháp để giành lại độc lập dân tộc. Kỳ nầy, khởi nghĩa thất bại, kỳ sau nhất định thành công!
Bọn lính vội xông đến bịt mắt, chị Bảy không chịu và nói để tao ngó thẳng vô họng súng chớ việc gì phải sợ. Tại pháp trường, từ đám quan Tây đến tụi mã tà, hội tề, đều sửng sốt và hốt hoảng. Cả năm chiến sĩ cách mạng đồng thanh, hô lớn:
- Đả đảo đế quốc Pháp!
- Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!
- Việt Nam độc lập muôn năm!
Đồng bào Cần Giuộc, Phước Lại có mặt ai nấy đều rất thương xót. Tấm gương quả cảm, hy sinh oanh liệt của chị Nguyễn Thị Bảy và các chiến sĩ cách mạng đã gây xúc động lớn trong các tầng lớp nhân dân. Chứng kiến từ đầu buổi thi hành án, ông Phan Văn Chương (1892-1985), còn gọi Đốc phủ Chương khi ấy là chủ quận Cần Giuộc đã vô cùng khâm phục. Sau năm 1945, khi giặc Pháp quay trở lại xâm lược, mặc dù đương giữ ghế Đô trưởng Sài Gòn, nhưng ông Chương vẫn quyết từ bỏ vinh hoa phú quý để ra bưng biền tham gia kháng chiến. Ông cho biết lý do mình thức tỉnh chính bởi tinh thần bất khuất, lẫm liệt của bà “Hoàng hậu đỏ”. Và ông Đốc phủ Chương trở thành một nhân sĩ yêu nước…
Ngưng một lát, như sực nhớ ra, dì Bảy Huệ nói thêm. À, cháu biết không, hồi kháng chiến chín năm, ở Nam Bộ có một tài liệu được phổ biến rộng rãi nêu gương của chị Nguyễn Thị Bảy, nhằm cổ vũ đồng bào và chiến sĩ…
Từ sau ngay đất nước thống nhất, công đức của “Hoàng hậu đỏ” Nguyễn Thị Bảy được lưu danh trên bia đá tại thị trấn Cần Giuộc. Tên bà được đặt cho một con đường ở thành phố Tân An, tỉnh Long An. Ngày 23-2-2010, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Quyết định số 212- QĐ/CTN, truy phong danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho bà Nguyễn Thị Bảy. Tiếp đó, ngày 5-6-2015, Nhà nước cũng ban hành quyết định truy tặng “Hoàng hậu đỏ” Nguyễn Thị Bảy danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Năm tháng rồi sẽ qua đi, nhưng chí khí lẫm liệt và tinh thần quật khởi của đồng bào và chiến sĩ ta trong cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 đầy bi tráng, với những con người như “Hoàng hậu đỏ” Nguyễn Thị Bảy sẽ đời đời bất tử.
NGUYỄN MINH TUÂN