NGANG TẦM CHIẾN LŨY
NGANG TẦM CHIẾN LŨY
Trong cuốn “Nhà văn Việt Nam hiện đại” do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành nhân dịp 40 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-1997), phần đầu sách có mục “Các nhà văn mất trước khi thành lập Hội” khá trang trọng. Nhà thơ Thôi Hữu xếp thứ tư trong tổng số 11 văn nhân đã khuất. Có điều, hiện tại năm sinh và tên khai sinh của ông vẫn không thống nhất; trong tất cả các cuốn kỷ yếu của Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản trước các kỳ Đại hội, đều ghi Thôi Hữu (Nguyễn Đắc Giới) sinh năm 1914; riêng cuốn Từ điển Văn học (bộ mới) do Nhà xuất bản Thế giới ấn hành 2004, ghi năm sinh là 1919, nhưng tên đệm lại là Đức chứ không phải Đắc?
Căn cứ vào cuốn sách “Trần Quốc Hương, Nhân cách và kỳ tích” của Tỉnh ủy Hà Nam (Nxb. Văn hóa - Thông tin, 2012) thì ông Mười Hương (Trần Quốc Hương, Trần Ngọc Ban) cho biết ông là bạn vong niên rất thân với Nguyễn Đắc Giới, tuy kém Thôi Hữu đến 5 tuổi (ông Mười Hương sinh 1924). Chúng tôi cho đây là tư liệu này đáng tin cậy hơn cả. Bởi lẽ, ông Trần Quốc Hương, người chỉ huy tình báo chiến lược tài ba của Việt Nam, nguyên là Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương, một người cực kỳ cẩn trọng. Thứ nữa, ông Trần Ngọc Ban và Nguyễn Đắc Giới có mối quan hệ thân thiết từ trước Cách mạng Tháng Tám 1945, cùng hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, nên đương nhiên, hồ sơ lý lịch đều phải chuẩn! Suy ra, Thôi Hữu sinh vào năm 2019.
Chào đời tại Hoằng Hóa, Thanh Hóa, nhà thơ Thôi Hữu được cha mẹ đặt là Nguyễn Đắc Giới. Thưở nhỏ, học ở quê nhà, sau vào Trường kỹ nghệ thực hành Huế. Chàng trai trẻ viết báo và làm thơ từ khá sớm. Dẫu rất giàu tâm huyết và sôi nổi khát vọng của một thanh niên yêu nước, song thơ ông vẫn chưa vượt lên khỏi mặt bằng chung lúc bấy giờ. Được giác ngộ lý tưởng cách mạng, năm 1940, Nguyễn Đắc Giới bỏ học, để hoạt động. Trước đó, ông tham gia trong tổ chức Đoàn thanh niên Dân chủ với tên là Trần Văn Tấn, thành thử khi làm thơ thì lấy bút hiệu Tân Sắc.
Cách nay chục năm về trước, nhân vài lần được có dịp hầu chuyện ông Mười Hương, tôi biết thêm nhiều điều liên quan đến nhà thơ Thôi Hữu. Hóa ra, từ năm 1942, tuy sống ở Hà Nội, nhưng Nguyễn Đắc Giới vẫn thường cộng tác với Tạp chí “Bạn đường” do phong trào Hướng đạo Thanh Hóa khởi xướng và tổ chức. Được biết, nhà thơ Trần Mai Ninh (Nguyễn Thường Khanh) cũng từng viết nhiều bài cộng tác với tạp chí này. Nhờ việc Tỉnh ủy Thanh Hóa nhanh nhạy tìm cách bố trí đưa người vào chỉ đạo, nên “Bạn đường” là tờ báo sớm có ảnh hưởng trong tầng lớp trí thức và công chức ở vùng Bắc Trung Bộ, lan rộng ra tận Hà Nội. Bấy giờ, Nguyễn Đắc Giới có biệt hiệu “Giới xồm”.
Cũng theo ông Mười Hương, lúc ở An toàn Khu (ATK), ông được Nguyễn Đắc Giới cho biết, từ tháng 3-1942, Nguyễn Kim Thành (nhà thơ Tố Hữu) vượt ngục Đăk Glei (Kon Tum) tìm về gây dựng cơ sở và chắp mối liên lạc với tổ chức Đảng ở Thanh Hóa. Vốn từng hoạt động trong phong trào thanh niên ở Huế nên Tố Hữu tìm gặp Nguyễn Đắc Giới. Hai người nhận thấy rằng xứ Thanh và miền Trung đang bị gián đoạn liên lạc với Trung ương, tình hình rất khó khăn. Biết bạn mình có nghề thợ điện vững vàng, Nguyễn Kim Thành gợi ý anh Giới nên sử dụng nghề đó ra Hà Nội làm ăn, vừa dễ bề che mắt chính quyền thực dân, vừa để tìm cách bắt liên lạc với Trung ương Đảng. Bởi lúc này, có nhiều tù chính trị vượt ngục về, Trung ương được tăng cường và đang hoạt động mạnh ở vùng chung quanh Hà Nội.
Bấy giờ, Nguyễn Đắc Giới đã lập gia đình. Người vợ là cháu của đồng chí Tô Hiệu (1912-1944), một chiến sĩ cộng sản hoạt động ở Hải Phòng, Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, hy sinh tại ngục Sơn La. Hoạt động trong phong trào truyền bá chữ quốc ngữ và phong trào dân chủ do Đảng lãnh đạo, Nguyễn Đắc Giới giao thiệp rộng, quen biết nhiều. Các ông Lê Tất Đắc quê ở Thanh Hóa và ông Nguyễn Tạo, quê Hà Tĩnh, một nhà cách mạng vừa trốn khỏi nhà tù thực dân về, thường hay ghé lại đàm đạo.
Công tác binh vận (địch vận) là một mặt công tác quan trọng của cách mạng. Là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, giỏi tiếng Pháp, Nguyễn Đắc Giới được phân công làm công tác binh vận dưới sự chỉ đạo của đồng chí Hoàng Văn Thụ - Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng. Trước biến chuyển của chiến tranh thế giới lần thứ 2, tháng 10-1942, Việt Minh ra tuyên bố kêu gọi các binh sĩ Pháp và lê dương không tuân lệnh Đờcu (Decoux), hãy chạy sang hàng ngũ cách mạng Việt Nam. Cán bộ binh vận của ta tăng cường hoạt động tiếp xúc với binh sĩ Pháp và lê dương để tuyên truyền, vận động. Bấy giờ, cơ quan binh vận đóng bí mật ở vùng Bạch Mai, nhưng Nguyễn Đắc Giới thường phải đi công tác xa. Họa hoằn lắm, ông Mười Hương mới gặp được bạn chỉ trong chốc lát. Địa bàn hoạt động của Giới xồm khá rộng, lúc thì ở ngoại thành Hà Nội, khi lên cả Việt Trì, hay dạt cả sang mạn Tông (Sơn Tây), những nơi có nhiều đơn vị quân đội Pháp đồn trú, để bắt liên lạc với những người có cảm tình với cách mạng Việt Nam đang ở trong đội quân lê dương.
Sau khi đồng chí Hoàng Văn Thụ bị thực dân Pháp bắt (8-1943) thì bộ phận binh vận này do Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp điều hành. Nguyễn Đắc Giới được bàn giao liên lạc với một người lính Đức thuộc trung đoàn lê dương số 5 của Pháp đóng ở Việt Trì, tên là Erwin Borchers, sau lấy tên Việt Nam là “Chiến sĩ”. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trường Chinh, được tiếp xúc và có sự giúp đỡ của anh Giới, “Chiến sĩ” tuyên truyền và kết bạn với Ernst Frey, đảng viên cộng sản người Do Thái, đeo lon trung sĩ. Ernst Frey cũng có tên Việt Nam là Nguyễn Dân. Cả anh bạn người Đức tên là Rudolf Schroeder cùng sang Đông Dương, lấy tên Việt là Lê Đức Nhân… Tất cả những người này được tập hợp thành “chi bộ xã hội cộng sản” (Sociolo-communiste) đầu tiên trong quân đội lê dương Pháp, qua anh Giới liên lạc với Việt Minh và cách mạng Việt Nam. Nguyễn Đắc Giới là người có trách nhiệm chính quan hệ với chi bộ cộng sản do Chiến sĩ phụ trách. Chi bộ này có nhiệm vụ tuyên truyền chống phát xít Nhật - Pháp trong đội quân lê dương. Nhờ vậy, ta nắm được nhiều thông tin quan trọng.
Không lâu sau, Nguyễn Đắc Giới bị sa vào tay địch. Hay tin, ông Mười Hương rất lo lắng, muốn biết bạn mình bị giam giữ ở đâu, hiện tình thế nào. Lần tìm đến một người quen ngày trước từng ở cùng pô-pôt (popote, một kiểu nhà trọ) ở số 6 phố Công sứ Miribel (Rue Résident Miribel, nay là phố Trần Nhân Tông, Hà Nội) hỏi thăm, được bắc cầu qua một nữ y tá làm ở Nhà thương Bạch Mai thì lần ra manh mối. Biết mật thám vừa đưa một người còn trẻ, đẹp trai, nói tiếng Tây rất thạo, nhốt vào nhà thương điên. Ai hỏi, anh ta chỉ nói tên là Giới xồm. Vì quá thương bạn, ông Mười Hương cậy nhờ nữ y tá lợi dụng nửa đêm khi lính gác sơ hở, ông mặc blu trắng trùm đầu và được dẫn vào thăm bạn. Biết là cực kỳ nguy hiểm, nên chỉ nhìn nhau trong chốc lát, Nguyễn Đắc Giới ứa nước mắt nhắc bạn phải đi ngay.
Vài ngày sau cuộc Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), ông Mười Hương vui mừng và xúc động gặp lại Nguyễn Đắc Giới tại tư gia của nhà văn Tô Hoài. Nghe người bạn vong niên kể lại, nhân lúc lộn xộn, anh tự gây thương tích, giả chết để được đưa xuống nhà xác, nhân đó mà trốn thoát. Trong thời gian đang bị địch giam giữ, Nguyễn Đắc Giới đã được tổ chức phân công vào Thành ủy Hà Nội. Nay được tự do, trở về, ông phụ trách ngoại thành.
Khi cầm bút, Nguyễn Đắc Giới ký bút danh Thôi Hữu, làm báo “Hồn nước” của Đoàn thanh niên Cứu quốc Hà Nội. Sau ngày Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, báo “Cờ Giải phóng”, cơ quan tuyên truyền cổ động của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, được Bộ Nội vụ cấp phép xuất bản công khai. Tổng Bí thư Trường Chinh là người trực tiếp chăm lo xây dựng tờ báo, tăng cường cho báo các ông Thôi Hữu, Sơn Tùng (Lê Hữu Kiều, Nam Mộc), Nguyễn Huy Tưởng, Thép Mới…
Sau khi Đảng ta tuyên bố tự giải tán (5-11-1945), thực chất là rút vào hoạt động bí mật, thì báo “Cờ Giải phóng” cũng tự đình bản. Cũng theo lời ông Mười Hương thì đầu năm 1946, đồng chí Trường Chinh điều nhà thơ Thôi Hữu về làm quản lý báo “Sự thật”, cơ quan tuyên truyền của Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Thôi Hữu vào quân đội, tham gia phụ trách tờ báo “Thủ đô” của Liên khu I. Ngày 10-3-1947, báo “Vệ quốc quân” (tiền thân của báo Quân đội nhân dân) được thành lập trên cơ sở hợp nhất hai tờ “Sao vàng” và “Chiến thắng”. Thôi Hữu lăn lộn bám sát các chiến trường, ông xông xáo và gắn bó với bộ đội. Các phóng sự như “Đi vào sau địch”, “Tù binh đường số 4” của ông đã tái hiện khá sinh động hiện thực kháng chiến, ngợi ca khí phách anh hùng, cũng như lòng nhân đạo cao cả của quân và dân ta.
Cùng với văn xuôi, sáng tác thơ của Thôi Hữu mang đậm phong cách nghệ sĩ - chiến sĩ, các bài như “Đi tuần”, “Tam Đảo phá hoại”; hay một nét chấm phá “Sau lũy tre xanh”, “Xe trâu”, “Lời cô lái đò”… phản ánh cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ của quân và dân ta lúc bấy giờ. Tuy nhiên, bạn đọc nhớ hơn cả vẫn là “Lên Cấm Sơn”. Có thể nói đây là bài thơ thành công nhất của ông. Tác phẩm này được chọn vào nhiều tuyển tập, như “Thơ Việt Nam 1945-1975”, “Thơ Việt Nam 1945-1985”, cùng các tập thơ kháng chiến. Lời thơ ngắn gọn, ngôn ngữ trau chuốt, cảm xúc chân thành và trong sáng. Dễ gì quên được những câu như này: “Có khi gạo hết tiền vơi/ Ổi xanh hái xuống đành xơi no lòng/ Có đêm gió bấc lạnh lùng/ Áo quần rách nát, lá dùng che thân…”. Hay là “Tiếng hát lừng vang trong gió núi/ Ngày vàng ngân giọng trẻ ê a/ Ở đây bản vắng rừng u tối/ Bộ đội mang gieo ánh chói lòa”.
“Lên Cấm Sơn” thể hiện một cái nhìn đầy lạc quan trước vẻ đẹp cao cả của Bộ đội Cụ Hồ, những người lính sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ, hy sinh để bảo vệ nhân dân. “Lòng tôi bừng thức tình trai mạnh/ Muốn viết bài thơ rộn tiếng cười/ Tặng những anh tôi trong lửa đạn/ Qua nghìn gian khổ vẫn vui tươi”.
Vừa bước sang tuổi 31, tài năng đương nở rộ, Thôi Hữu xông xáo và có mặt trên chiến trường. Trước khi chiến dịch Trần Hưng Đạo (còn gọi chiến dịch Trung Du) mở màn gần chục ngày, trên đường đi công tác, ông bị trúng bom của máy bay giặc Pháp (16-12-1950). Thôi Hữu hy sinh giữa cánh đồng Phố Giá, gần Viện Quân y Vô Thanh, nay thuộc địa phận huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.
Mãi hơn 30 năm sau ngày ông ngã xuống, cuốn “Thơ văn Thôi Hữu” mới được ra mắt bạn đọc. Mùa hè năm 2003, nhà thơ Hoàng Quý, một người con của quê hương Phú Thọ, có dịp đến những địa danh mà hơn nửa thế kỷ trước Thôi Hữu từng in dấu chân. Lòng bồi hồi, Hoàng Quý viết: “Một dốc/ Hai dốc/ Rất nhiều dốc/ Cấm Sơn ngày này tôi mới qua/ Câu thơ người hát thời chinh chiến/ Còn tươi trên lá đến bây giờ!”. (Tới Cấm Sơn nhớ thi sĩ Thôi Hữu).
Nhìn lại quãng thời gian hoạt động sôi nổi của một cán bộ cách mạng, một nhà báo sắc sảo, nhà thơ - liệt sĩ, càng thêm tự hào về một thế hệ cầm bút luôn đồng hành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân. Xin được mượn câu thơ của Chế Lan Viên để nói về Thôi Hữu: “Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy”.
NGUYỄN LAN CHI
Ảnh: Tư liệu