column_right getExtensions 1765017613-1765017613

column_right module news_latest

column_right module news_featured

column_right module news_by_category

column_right module news_by_category

column_right module news_by_category

column_right module news_by_category

column_right module banner

column_right prepare data 1765017613-1765017614

QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM

QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM

Đăng bởi: Admin Ngày đăng:14-10-2025

Đến với bài thơ hay
QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM

Việt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn

Cánh cò bay lả dập dờn

Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều

 

Quê hương biết mấy thân yêu

Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau

Mặt người vất vả in sâu

Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn

 

Đất nghèo nuôi những anh hùng

Chìm trong máu chảy lại vùng đứng lên

Đạp quân thù xuống đất đen

Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa

 

Việt Nam đất nắng chan hòa

Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh

Mắt đen cô gái long lanh

Yêu ai yêu trọn tấm tình thủy chung

 

Đất trăm nghề của trăm vùng

Khách phương xa tới lạ lùng tìm xem

Tay người như có phép tiên

Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ

 

Nước bâng khuâng những bến đò

Đêm đêm còn vọng câu hò Trương Chi

Đói nghèo nên phải chia ly

Xót xa lòng kẻ rời quê lên đường

 

Ta đi ta nhớ núi rừng

Ta đi ta nhớ dòng sông vỡ bờ

Nhớ đồng ruộng nhớ khoai ngô

Bát canh rau muống quả cà giòn tan.

1958

NGUYỄN ĐÌNH THI

(Rút trong tuyển “Thơ Việt Nam 1945-1985”, Nxb Văn học, H.1985)
Lời bình của Nhà văn NGUYỄN MINH NGỌC

Nhà văn hóa Nguyễn Đình Thi (1924-2003) là một tên tuổi lớn xuất sắc hàng đầu của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Đa tài, nên gọi ông là nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch, nhạc sĩ, đều chuẩn. Nguyên quán ở làng Vũ Thạch, nay là phố Bà Triệu, Hà Nội. Ông ngoại của Nguyễn Đình Thi người Hà Tĩnh, từng tham gia chống Pháp, bị đàn áp, phải dạt sang Lào. Nguyễn Đình Thi được sinh ra ở Luang Prabang. Mấy năm sau, cả gia đình về nước. Năm 1941, chàng tuổi trẻ tham gia Việt Minh, trong tổ chức học sinh Hà Nội.

Cầm bút viết văn, Nguyễn Đình Thi tham gia Hội Văn hóa cứu quốc. Ngày 16-8-1945, là đại biểu Văn hóa cứu quốc tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào, Tuyên Quang, ông được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam. Trước khí thế hừng hực chuẩn bị tổng khởi nghĩa, Nguyễn Đình Thi sáng tác bài hát “Diệt phát xít”. Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, bài “Diệt phát xít” được chọn làm nhạc hiệu chính thức của Đài Tiếng nói Việt Nam. “Việt Nam bao năm ròng rên xiết lầm than. Dưới ách quân tham tàn đế quốc sài langDành lại áo cơm tự do. Dưới ánh cờ đỏ ánh vàng sao”. Giai điệu hào hùng này đã quá đỗi quen thuộc với hàng triệu con dân đất Việt, suốt 80 năm qua.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Đình Thi gia nhập quân đội, ông làm Chính trị viên phó Tiểu đoàn tại Trung đoàn 102 (Trung đoàn Thủ đô), thuộc Đại đoàn 308 cho đến hết Chiến dịch Điện Biên Phủ. Về âm nhạc, ông còn có một ca khúc bất hủ khác là “Người Hà Nội” hay đến mức kinh điển. “Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây. Đây lắng hồn núi sông ngàn năm. Đây Thăng Long, đây Đông Đô, đây Hà Nội, Hà Nội mến yêu! Hà Nội cháy, khói lửa ngập trời… Hà Nội vùng đứng lên! Sông Hồng reo Hà Nội vùng đứng lên!”. Các ca khúc của Nguyễn Đình Thi đã trở thành một phần ký ức lịch sử dân tộc, khơi dậy niềm tự hào đối với quê hương, đất nước.

Về văn học, bên cạnh các tiểu thuyết “Xung kích”, “Vào lửa”, “Mặt trận trên cao”, “Vỡ bờ” (2 tập) vạm vỡ; mảng kịch nói giàu chất suy tưởng như “Hoa và Ngần”, “Rừng trúc”, “Nguyễn Trãi ở Đông Quan”…; Nguyễn Đình Thi còn những đóng góp có giá trị về lý luận phê bình đậm tính sáng tạo và tinh thần dân tộc. Tuy chỉ xuất bản 4 tập thơ “Người chiến sĩ” và “Bài thơ Hắc Hải” (1958), “Dòng sông trong xanh” (1974), “Tia nắng” (1988), nhưng ông vẫn tạo được bản sắc riêng. Lối thơ cách tân táo bạo, ngôn ngữ hàm súc và lắng sâu, rất giàu nhạc điệu.

Nổi bật bởi tài năng về nhiều mặt xuất sắc, Nguyễn Đình Thi được vinh danh cầm, kỳ, thi, họa. Với tầm văn hóa Đông Tây kim cổ sâu rộng, ông giữ chức Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam suốt 3 nhiệm kỳ (1958-1989); Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt đầu tiên, 1996.

Ngợi ca Tổ quốc là chủ đề quan trọng nhất trong thơ Nguyễn Đình Thi. Không phải ngẫu nhiên mà ông từng viết “Anh yêu em như yêu đất nước. Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần” (Nhớ). Hay tự hào kiêu hãnh “Nước Việt Nam từ máu lửa. Giũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Đất nước).

Quê hương Việt Nam” là một trích đoạn trong tập “Bài thơ Hắc Hải” của Nguyễn Đình Thi. Bài thơ mang âm hưởng của ca dao, dân ca, dung dị mà lắng sâu, thấm đậm tâm hồn Việt. Quả hiếm có bài thơ lục bát nào đạt tới sự nhuần nhị đến thế. “Việt Nam đất nước ta ơi/ Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn/ Cánh cò bay lả dập dờn/ Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”. Chỉ với một khổ thơ, toàn cảnh non sông đã được khắc họa với vẻ đẹp dệt gấm, thêu hoa, tươi mới.

Cảm hứng thiết tha, sự đồng điệu đã nâng cánh hồn thơ bay lên. Nguyễn Đình Thi từng mong muốn “câu thơ như lời nói thường” với những hình ảnh “khỏe, gân guốc, xù xì, chất phác”… Thế nên, thi sĩ dùng ngôn ngữ như một lời giãi bày gan ruột: “Quê hương biết mấy thân yêu”. Và ông day dứt, bởi:“Bao nhiêu đời đã chịu nhiều đau/ Mặt người vất vả in sâu/ Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn”. Nhà thơ đã thay lời hàng triệu con dân đất Việt khái quát nên một tính cách đã hình thành tự bao đời nay. Hình tượng “áo nâu nhuộm bùn…” gợi sự bền bỉ, mộc mạc và thắm đượm.

Không dừng lại ở đó, nhà thơ khơi gợi truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của dân tộc, sâu sắc. Đây là điểm nhấn của toàn bài. “Đất nghèo nuôi những anh hùng/ Chìm trong máu chảy lại vùng đứng lên/ Đạp quân thù xuống đất đen/ Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”.

Tác giả ghim vào lòng bạn đọc một tình yêu lớn, để ai ai cũng có thể ngân lên, tự hào. “Việt Nam đất nắng chan hòa/ Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh”. Trong khổ thơ này, Nguyễn Đình Thi thể hiện sự điêu luyện về ngôn ngữ, đặc biệt, việc dụng công biện pháp tu từ, tạo nên sự khác biệt và nhất là sức nặng xúc cảm. “Mắt đen cô gái long lanh/ Yêu ai yêu trọn tấm tình thủy chung”. Câu thơ thấm sâu vào lòng bạn đọc, chạm khắc trí nhớ, bền lâu.

Tự cổ chí kim, quê hương, đất nước luôn gắn liền với những điều gần gũi và bình dị, như cây đa, ngõ chợ, sân đình. Con người là hoa của đất. Nên mỗi vùng quê đều có những nghề thủ công mĩ nghệ với nét riêng độc đáo, tinh xảo. “Đất trăm nghề của trăm vùng/ Khách phương xa tới lạ lùng tìm xem/ Tay người như có phép tiên/ Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ”.

Đất và nước hợp nên Tổ quốc. Đất hào sảng, còn nước thì nên thơ, lưu luyến. “Nước bâng khuâng những bến đò/ Đêm đêm còn vọng câu hò Trương Chi/ Đói nghèo nên phải chia ly/ Xót xa lòng kẻ rời quê lên đường”. Chẳng mấy ai không biết câu chuyện cổ nổi tiếng trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, về mối tình ngang trái giữa Trương Chi và Mị Nương. Dân gian lưu truyền từ đời này sang đời khác, câu ca: “Ngày xưa có anh Trương Chi. Người thì thậm xấu, hát thì thậm hay”. Tác giả gợi nhớ những dòng sông, những bến đò, kẻ ở người đi một thuở. Một cách kín đáo, cảm thương phận người tài hoa song thiếu may mắn của thời chưa xa; giúp bạn đọc hiểu và trân quý cuộc sống hiện tại nhân dân ta vừa giành được từ tay đế quốc, phong kiến.

Ở khổ cuối, nhà thơ vận ca dao để khép lại bài lục bát. Sau điệp khúc “Ta đi ta nhớ…”, ông viết “Nhớ đồng ruộng nhớ khoai ngô/ Bát canh rau muống quả cà giòn tan”, thì thật sự khó quên.

Nguyễn Đình Thi khuất xa hơn 20 năm, nhưng hồn thơ và tấm lòng trĩu nặng với quê hương, đất nước mãi vẫn còn nồng ấm, bất tử.

BÀI VIẾT NỔI BẬT