column_right getExtensions 1714003655-1714003655

column_right module news_latest

column_right module news_featured

column_right module news_by_category

column_right module news_by_category

column_right module news_by_category

column_right module news_by_category

column_right module banner

column_right module visitor

column_right prepare data 1714003655-1714003655

MÃI NHỚ CHUM TƯƠNG CỦA BÀ

MÃI NHỚ CHUM TƯƠNG CỦA BÀ

Đăng bởi: Admin Ngày đăng:13-09-2022

MÃI NHỚ CHUM TƯƠNG CỦA BÀ

Không còn nhớ cữ nào thì các bà, các mẹ sửa soạn làm tương nữa. Có lẽ trí nhớ đã mờ mịt rồi chăng? Những tháng ngày phảng phất mùi heo may, mùi hoa gạo, mùi đồng bãi ngô đậu xanh um, cùng cái lạnh se da thịt khi dầm mình cào hến ngoài sông. Mùi khói bếp buổi trưa vờn trên những đống rơm, quẩn giữa vòm xoan mới lớn, lá xanh mà hoa thì tím ngát. Bỗng đâu đó, dậy mùi tương. Mấy năm trước, về thăm quê trên Bất Bạt, rẽ vào chùa Mía và dừng lại giữa sân. Nắng óng ả tuôn qua vòm lá chờn vờn trườn trên những cái lưng chum sành ngả màu nửa rêu nửa đất. Giữa không gian ấy dậy lên một mùi hương thao thiết. Mùi gì ấy nhỉ? Mùi đất trong hầm chữ A? Đúng rồi, nhưng còn cái gì chua chua? Hình như còn mốc mốc mặn mặn, quen quá, thơm quá. Mùi hương ấy, là Tương.

Dào dạt bao năm tháng ùa về. Năm tháng của những niềm vui giản dị và vô tư chỉ đến với con trẻ. Giữa sân chùa hít căng ngực mùi tương, bỗng nhớ bà quá đỗi. Hình như ngày đó hằng năm vào lúc nắng non hơn nắng tháng sáu một chút, bà làm tương. Hàng xóm, nhà nào cũng một dãy chum thù lù sát bờ rào. Cái cong tương quanh năm đội nón mê đứng đầu sân lặng im dạy trẻ con biết bao điều, trước hết là biết thân biết phận đừng nghịch dại. Còn sao nữa! Choang cái gì vào đó, chum tương mà vỡ thì cả năm ăn muối. Quê tôi, nơi bà đưa chúng tôi quay về sau những năm tháng bà làm dâu xa xứ, thường làm tương bằng ngô hạt. Ngô tẻ qua bao lần nắng nỏ, dậy màu vàng, cứng như đá. Và đậu tương. Cái món nước chấm này có tên là tương hẳn rằng từ đó mà ra. Nếu vậy thì thiệt thòi cho ngô quá, chẳng khác gì mấy chị hàng xóm nhà bên, hễ lấy chồng cái là mất ngay tên cha sinh mẹ đặt, đến lúc già khụ rồi thì bị gọi bằng tên đứa chắt. Bà đi chợ phiên đong thêm mấy đấu đậu tương, nhân đấy kiếm thêm mấy xâu men về làm vò rượu nếp hạ thổ cho ông chú kề cà mỗi lúc chiều tà. Buổi sáng, mở mắt quờ tay không thấy bà, nhảy tót xuống giường lao xuống bếp đã thấy trên bếp một nồi bung to vật, bà hì hụi nấu từ gà gáy sang canh. Mùi ngô thơm cưng cứng, mùi đậu tương rang bén thơm khen khét. Bốc trộm bà nắm đậu tương rang rồi lỉnh ra bến nước, nhìn xuống sông đã thấy các bà các chị lổng chổng quang gánh nồi bung xả nước. Họ đãi cho bằng hết mày ngô để làm tương đấy. Bữa trưa ngày làm tương bà thường không thổi cơm. Ngô bung đãi sạch mày ngoài bến sông rồi, đậu xanh xát vỏ đồ kỹ giã nhuyễn nắm thành nắm, hành hoa phi mỡ, bà xúc cho lũ cháu mỗi đứa một bát, rồi bà dùng con dao bài xắt đỗ thành từng lát rất tơi mềm, rồi bà rưới mỡ hành. Đứa nào cũng hau háu chờ cái thìa mỡ hành xanh lá của bà dùng dằng trên bát mình một chút. Màu vàng mềm mại của đậu xanh phủ hờ hững trên cái màu vàng ươm của những hạt ngô tẻ đã nở hết mình vì được bung kỹ, dường như không có sự hoà nhập với nhau, nhưng khi ngồi nhẩn nha nhai kỹ lại có vị ngọt bùi riêng, không dễ dãi. Mùi ngô tẻ bung để làm tương, vị đậu tương rang của một ngày xa tít nằm rất sâu trong tôi, mà không hề biết rằng, một bữa trưa giữa sân chùa Mía đột nhiên vùng dậy, làm ký ức chao đảo.

Thương bao ngày xóm nhỏ bên bà. Mùa giạt mốc cả nhà toàn mùi tương lên mốc. Bà cuộn chiếu trải cái giường ở gian nhà trái, đặt lên đó nong tương mốc. Thật khó tả cái mùi mốc này, với bà đó là mùi thơm. Cũng như mùi đậu phụ lên meo, mùi xôi nếp cẩm lên men. Thơm tất, nhưng ai không quen hít một hơi là sộc tận óc. Mùi mốc tương toả khắp nhà cửa thông thống. Nó ám vào chăn chiếu, vào quần áo vừa rút từ sân nắng. Nó thoảng ra tận cổng, nơi đàn gà thích bới đất dưới gốc chuối thành từng hũm để vùi mình tránh nắng. Tôi không nhớ rõ ràng cái lúc bà cho tất cả vào cong. Đó là quy trình thủ công đòi hỏi phải tập trung tinh lực thế nào đó nên bà không cho chúng tôi lai vãng ra hè, nơi bà lom khom bê cái nong mốc ra. Xong xuôi, bà gọi chú Chấu ra ôm cả cong đã đầy ngô đậu lên mốc với muối ra đặt ở mép sân. Rồi bà lấy lá chuối khô bịt kín miệng cong. Sau đó bà úp cái mê nón rách từ đời tám hoánh nào. Cong tương đứng đó, nhận thêm vào mình hơi nắng hơi mưa, và tự ngấu. Tôi nhớ, nhớ sâu đậm đĩa rau lang rau muống, gắp rau dền dầm sũng sĩnh trong bát tương mới ngấu. Như thấy bóng dáng quê nhà. Tương bà tôi làm thơm dịu, dậy một màu nâu sậm rất lành, loáng thoáng đôi chút trắng ngà là thứ mày đậu tương còn sót lại. Tương ấy chấm rau dền, rau muống vừa mới hái, luộc xanh rì. Tương ấy nấu canh rau lang đời cũ, mà cả rau muống nữa, cho thêm chút gừng. Tương ấy đổ ngập niêu cá bà mới mua của thuyền chài lúc sẩm tối, để liu riu trên bếp lửa, đập thêm củ nghệ tươi, củ hành tăm, thêm mấy lá gừng. Bữa trưa, bà chắt nước tương từ nồi cá kho cho bầy cháu rưới vào bát cơm mậu dịch. Chắc không bữa cơm nào, bây giờ và cả mai sau có thể sánh được với bát cơm ngày mưa trong những năm tháng gian khó ấy.

Dòng sông xưa nước trong veo, nơi các bà, các chị đãi ngô, đãi tương, ríu ran mỗi sáng, giờ trở nên đục lờ ngập rác ni lông. Những đứa trẻ ngày ấy tỏa đi bốn phương tám hướng. Bà già rồi, bác cả đón lên phố. Nơi ấy, có còn ai làm tương? Ngờ lắm. Đến cà dưa người ta còn đi mua, thì món kỳ công như tương hỏi ai rỗi công và thạo mà làm? Chợ phố, chợ quê, siêu thị nơi nào cũng có tương, tôi đã từng mua, về đổ ngập mình lên con cá chép rồi kho. Nhưng mà không ngon, cá béo quá, tương ngọt quá. Ngờ rằng tương này làm từ gạo nếp, thay vì ngô như tương của bà làm, bởi ngọt vị đường. Thiếu cái ngọt mộc mạc, thiếu mùi khói bếp, thiếu hơi nắng hơi mưa, thứ tương làm quanh năm, bán quanh năm theo công nghệ đóng chai nhựa không vờn quyến được khẩu vị của người phố thị xuất thân từ làng quê.

Vào hạ nơi ấy, hoa gạo đã đỏ chưa? Đi dưới nắng ngắm vòm cây từng ngày phơi phới rồi trầm xanh lại, nhớ ngút ngàn màu ngô đậu, những bóng người đầu sông cuối bãi, ngoài ngõ trong vườn, âm thầm tất tưởi. Những bóng đàn bà. Họ còn đất để mà âm thầm tất tưởi nữa không? Hay là vì chồng vì con đã khăn gói đi làm ôsin nơi phố thị? Lại nhớ những món ăn làm từ ngô, đậu từ bàn tay họ. Từ bà - “Nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn” - ngun ngút nhớ!

Thanh Hồng

BÀI VIẾT NỔI BẬT

Thống kê truy cập

Đang online:5
Trong ngày:1022
Trong tuần:1022
Trong tháng:1022
Cả năm:1022
Tổng lượt xem:1022