column_right getExtensions 1714912425-1714912425

column_right module news_latest

column_right module news_featured

column_right module news_by_category

column_right module news_by_category

column_right module news_by_category

column_right module news_by_category

column_right module banner

column_right module visitor

column_right prepare data 1714912425-1714912425

MARIE CURIE

MARIE CURIE

Đăng bởi: Admin Ngày đăng:13-05-2023

MARIE CURIE

Marie Curie có tên khai sinh là Marya (Manya) Salomee Sklodowska), chào đời ngày 7-11-1867 tại Warsaw, Ba Lan. Là con út trong gia đình có 5 người con, bà có 3 chị gái và 1 anh trai. Song thân - Wladislaw và Bronislava - là những nhà giáo dục tiên phong khi đảm bảo rằng con gái được giáo dục ngang bằng như con trai. Tuy gia đình gặp khó khăn, nhưng ông bà để lại cho các con vốn kiến thức và tinh thần học tập.

Marie Curie (1867-1934)

Tuổi 15, Marie Curie hoàn thành chương trình giáo dục trung học, là thủ khoa của lớp. Bà và chị gái Bronya, đều mong muốn theo đuổi con đường học vấn cao hơn, nhưng Đại học Warsaw không chấp nhận nữ giới và họ buộc phải rời đất nước. Hai năm sau, bà làm gia sư để lo tiền cho chị gái mình theo học tại trường y ở Paris. Bà tiếp tục tự học và đến Pháp vào tháng 11-1891. Khi vào Đại học Sorbonne danh giá ở Paris, Marie Curie được đánh giá là một sinh viên siêng năng và luôn đứng đầu lớp. Bà được nhận học bổng Alexandrovitch dành cho sinh viên Ba Lan du học. Nhờ vậy, mà có tiền chi trả cho các lớp học cần thiết để hoàn thành song bằng về vật lý và toán học, năm 1894.

Một trong những giáo sư của bà đã sắp xếp một khoản trợ cấp nghiên cứu để bà nghiên cứu các tính chất từ tính và thành phần hóa học của thép. Dự án nghiên cứu đó đã giúp bà liên hệ với Pierre Curie, một nhà nghiên cứu danh tiếng. Và họ đến với nhau mùa hè năm 1895.

Bà Marie và chồng, Pierre Curie

Pierre nghiên cứu lĩnh vực tinh thể học và phát hiện ra hiệu ứng áp điện, đó là khi các điện tích được tạo ra bằng cách ép, hoặc áp dụng ứng suất cơ học lên các tinh thể nhất định. Ông cũng thiết kế một số công cụ để đo từ trường và điện.

Marie Curie bị hấp dẫn bởi báo cáo về khám phá ra tia X của nhà vật lý người Đức Wilhelm Röntgen và báo cáo của nhà vật lý người Pháp Henri Becquerel về “tia Becquerel” do muối uranium phát ra.

Curie đã phủ một lớp mỏng muối uranium lên một trong 2 tấm kim loại. Sau đó, bà đo cường độ của các tia do uranium tạo ra bằng dụng cụ do chồng bà thiết kế. Các thiết bị phát hiện ra các dòng điện mờ tạo ra khi không khí giữa hai tấm kim loại bị bắn phá bằng tia uranium. Bà phát hiện ra rằng các hợp chất uranium cũng phát ra những tia tương tự. Ngoài ra, độ mạnh của các tia vẫn được giữ nguyên, bất kể các hợp chất ở trạng thái rắn hay lỏng.

Tiếp tục công việc, bà thử nghiệm với một loại quặng giàu uranium có tên là pitchblende và nhận thấy rằng ngay cả khi uranium bị loại bỏ, thì pitchblende cũng phát ra các tia mạnh hơn các tia do uranium nguyên chất phát ra. Bà nghi ngờ rằng điều này cho thấy sự hiện diện của một nguyên tố chưa được khám phá. Tháng 3-1898, Marie Curie ghi lại những phát hiện của mình trong một bài báo nhỏ, nơi bà đặt ra thuật ngữ “phóng xạ”. Bà thực hiện 2 quan sát mang tính cách mạng trong bài báo này và tuyên bố việc đo độ phóng xạ sẽ cho phép phát hiện ra các nguyên tố mới, và tính phóng xạ chính là một thuộc tính của nguyên tử.

Ông bà cùng làm việc để kiểm tra vô số các quặng pitchblende. Riêng bà thường làm tận khuya để khuấy những chiếc vạc lớn bằng một thanh sắt cao gần bằng mình. Và họ phát hiện ra rằng 2 trong số các thành phần hóa học - một thành phần tương tự như bitmut và thành phần kia giống như bari - là chất phóng xạ. Vào tháng 7-1898, nhà Curie công bố kết luận của họ: hợp chất giống bitmut chứa một nguyên tố phóng xạ chưa được phát hiện trước đây, mà họ đặt tên là polonium, theo tên đất nước Ba Lan của bà.

Hai người đã phân lập được một nguyên tố phóng xạ thứ 2, mà họ gọi là radium, có nguồn gốc từ "radius", từ tiếng Latinh có nghĩa là tia. Năm 1902, gia đình Curie đã công bố thành công của họ trong việc chiết xuất radium tinh khiết.

Vợ chồng nhà bác học và con gái Irène

Tháng 6-1903, Marie Curie là người phụ nữ đầu tiên ở Pháp bảo vệ luận án tiến sĩ. Vào tháng 11 năm đó, nhà Curie cùng với Henri Becquerel cùng được vinh danh là người đoạt giải Nobel Vật lý vì những đóng góp của họ trong việc tìm hiểu “các hiện tượng bức xạ”. Ban đầu ủy ban đề cử phản đối việc đưa một phụ nữ là người đoạt giải Nobel, nhưng Pierre Curie khẳng định rằng nghiên cứu ban đầu là của vợ ông. Năm 1906, Pierre Curie qua đời. Marie Curie là người phụ nữ đầu tiên đảm nhiệm vị trí giáo sư vật lý đại cương của chồng mình tại Khoa khoa học Đại học Sorbonne.

Năm 1911, Marie Curie được trao giải Nobel Hóa học lần thứ 2 nhờ phát hiện ra các nguyên tố polonium và radium. Kỷ niệm 100 năm ngày nhận giải Nobel của bà, năm 2011 được tuyên bố là “Năm Quốc tế về Hóa học”.

Khi nghiên cứu về phóng xạ ngày càng căng thẳng, các phòng thí nghiệm của Curie trở nên thiếu thốn. Chính phủ Áo nắm bắt cơ hội tuyển dụng Curie và đề nghị thành lập một phòng thí nghiệm tiên tiến.

Bà thương thảo với Viện Pasteur để xây dựng một phòng nghiên cứu phóng xạ. Tháng 7-1914, Viện Radium (“Institut du Radium”, tại Viện Pasteur, nay là Viện Curie) gần như hoàn thành. Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra (1914), Curie tạm dừng công việc nghiên cứu của mình và tổ chức một đội máy chụp X-quang di động giúp các bác sĩ ngoài mặt trận.

Sau chiến tranh, bà làm việc để gây quỹ cho Viện Radium của mình. Đến năm 1920, do tiếp xúc với chất phóng xạ, sức khỏe của bà bị ảnh hưởng lớn. Ngày 4-7-1934, bà qua đời vì suy tủy xương, không thể sản xuất các tế bào máu mới.

Marie Curie yên nghỉ cạnh Pierre Curie ở Sceaux, phía nam Paris. Đến năm 1995, hài cốt của ông bà được chuyển vào Điện Pantheon với những công dân vĩ đại nhất nước Pháp. Vào năm 1944, nguyên tố thứ 96 trong bảng tuần hoàn được phát hiện và đặt tên là “Curium”.

Marie Curie truyền cảm hứng say mê nghiên cứu cho hàng triệu phụ nữ

Giải Nobel Hóa học (1911) phát hiện ra radium, polonium và sự phân lập radium, cung cấp cho khoa học phương pháp cô lập và tinh chế các đồng vị phóng xạ. Polonium được sử dụng như chất sưởi trong các tàu thăm dò không gian và có liên quan đến vũ khí hạt nhân, nhưng radium, với ánh sáng màu xanh lục quyến rũ đã trở thành nguyên tố “ngôi sao điện ảnh”.

Nó nhanh chóng được đưa vào trong một loạt các ứng dụng nổi tiếng như chiếu sáng mặt đồng hồ và được các bác sĩ thu nhận như một loại vũ khí trị liệu đa năng chống lại mụn trứng cá, giãn tĩnh mạch, động kinh và hơn thế nữa. Các bác sĩ đã khui trúng “mỏ vàng” khi áp dụng trong điều trị ung thư. Bức xạ có thể thu nhỏ các khối u, trong khi các mảnh radium, được áp dụng trực tiếp trong một phương pháp được gọi là cận xạ trị, cũng có thể làm được điều tương tự. Các kỹ thuật này, ở dạng tinh chế, ngày nay được phổ biến rộng rãi, cùng với y học hạt nhân, việc thu nhận hình ảnh các khối u bằng các chất được gắn nhãn đồng vị phóng xạ.

Tiến sĩ Spencer Weart, cựu Giám đốc Trung tâm lịch sử vật lý ở Maryland (Mỹ) cho biết: “Tất cả các loại thuốc dựa vào phóng xạ - chiếu xạ người - đều bắt nguồn từ Marie Curie. Bà ấy đã tạo ra khám phá mà hàng triệu người sử dụng kể từ đó”.

Thành tựu giảng dạy của Marie Curie rất ấn tượng. Bà đào tạo các giáo viên nữ, đảo ngược cách học vẹt trong chương trình giảng dạy khoa học của họ để chuyển sang các thí nghiệm thực hành. Nhiều học trò của bà đã trở thành bác sĩ, nhà khoa học và giáo viên khoa học. Ảnh hưởng của bà trong việc giáo dục phụ nữ về khả năng sống cùng khoa học, cả đóng góp của phái đẹp cho sự nghiệp khoa học của nhân loại là rất sâu sắc.

*

Marie Curie có 2 con gái. Irene sinh năm 1897. Eve được sinh ra 7 năm sau đó. Chồng mất, Marie một mình nuôi dạy 2 con gái. Không hài lòng với trường học ở Paris thời điểm đó, Marie Curie dành thời gian dạy các con tại nhà.

Người mẹ cùng hai con

Irene tiếp bước mẹ mình. Cô hoàn thành nghiên cứu sau đại học trong khi làm việc với mẹ tại Viện Radium. Ở đó, cô gặp nửa kia của mình, Frédéric Joliot. Nhiều năm sau, hai vợ chồng cùng nhận giải Nobel cho nghiên cứu của họ (cũng về phóng xạ). Và đó mới chỉ là bề nổi những thành tựu khoa học và nhân đạo của cặp đôi.

Vợ chồng Irene trong phòng thí nghiệm

Cô con gái út Eve lại thiên về nghệ thuật và viết lách; được đề cử cho giải thưởng Pulitzer về tin tức chiến tranh. Vào năm 1965, Eve cùng chồng (Giám đốc điều hành của UNICEF), thay mặt tổ chức này nhận giải Nobel Hòa bình.

Sau khi Marie Curie qua đời, Eve viết một cuốn sách đầy ấm áp về mẹ mình. Một nhà phê bình viết trên tờ New York Times, rằng nó “khuấy động trái tim và trí óc nhờ sự cân bằng tuyệt vời của lý trí và tình cảm”.

Không chỉ cống hiến trọn đời cho khoa học, Marie Curie còn nuôi dạy 2 người con giành giải Nobel. Bà là người mẹ vĩ đại.

THẠCH ANH
(Theo báo PNVN)
Ảnh: TƯ LIỆU

BÀI VIẾT NỔI BẬT

Thống kê truy cập

Đang online:5
Trong ngày:1281
Trong tuần:7814
Trong tháng:7814
Cả năm:7814
Tổng lượt xem:7814