column_right getExtensions 1732189428-1732189428

column_right module news_latest

column_right module news_featured

column_right module news_by_category

column_right module news_by_category

column_right module news_by_category

column_right module news_by_category

column_right module banner

column_right prepare data 1732189428-1732189428

TIẾNG HÁT TRONG TRẠI ĐAVÍT

TIẾNG HÁT TRONG TRẠI ĐAVÍT

Đăng bởi: Admin Ngày đăng:25-06-2023

TIẾNG HÁT TRONG TRẠI ĐAVÍT

Sau khi Hiệp định Paris được ký kết (1-1973), Đoàn Văn công Quân giải phóng (VCQGP) miền Nam được giao nhiệm vụ khẩn trương xây dựng một chương trình nghệ thuật tổng hợp phục vụ bộ đội và nhân dân vùng giải phóng. Trong đó có việc tổ chức biểu diễn đón tiếp cán bộ, chiến sĩ ta bị tù đày, được đối phương trao trả tại Lộc Ninh.

Trung tuần tháng 9-1973, nhận lời mời của Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, phái đoàn Ủy ban quốc tế giám sát việc thi hành Hiệp định Paris, bao gồm các vị trưởng và phó của các đoàn, đến thăm Lộc Ninh, thủ phủ của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đoàn VCQGP được điều động về phục vụ. Trước khi bước vào biểu diễn, Trung tướng Tư lệnh Trần Văn Trà căn dặn: “Các đồng chí phải ca hay hơn, múa giỏi hơn nữa, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu về chính trị to lớn và phức tạp hơn. Làm thế nào để xứng đáng bộ mặt Quân giải phóng”. Hiểu kỳ vọng của cấp trên, nên dẫu thời gian chuẩn bị rất gấp gáp, song anh chị em trong đoàn vẫn đem hết nhiệt tình, mang lời ca tiếng hát phục vụ. Từ ngạc nhiên đến khâm phục, một thành viên trong Ủy ban quốc tế, nhận xét: “Hay! Rất hay! Tôi nghĩ rằng trong vùng các ông chưa thể có một đoàn ca múa như thế được… Rất tuyệt! Một chuyến đi không thể nào quên”.

Từ thành công này, tại làng 7 Lộc Ninh, Đoàn được giao chọn lựa thành lập một bộ phận văn nghệ xung kích vào Sài Gòn, biểu diễn phục vụ Ban liên hiệp bốn bên tại trại Đavít trong sân bay Tân Sơn Nhất. Theo kế hoạch đã định, sẽ có máy bay trực thăng của quân đội Sài Gòn lên đón rước. Toàn đội gồm 9 người, do Thượng úy nhạc sĩ Vũ Thành làm đội trưởng; các ca sĩ Minh Sen, Trọng Khanh, Kim Chi; Thanh Lự (hát, ảo thuật), Phạm Hạng (đàn bầu), Trương Nghề (clarinette), Thanh Sơn (violon), Tuyết Mai (accordéon). Tuy nhiên đến phút chót, phát hiện ra thứ “vũ khí” cực kỳ lợi hại của Văn công QGP, nên chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đổi ý, từ chối không chở cánh văn nghệ. Báo hại khiến cả đội dài cổ chờ đợi suốt một ngày ròng rã tại sân bay Lộc Ninh.

Trại Đavít (1973-1975) nơi có trụ sở của 2 đoàn đại biểu quân sự của ta

Hiểu rõ “lòng dạ” của đối phương, nhân chuyện định kỳ luân phiên thay nhau vào thực hiện nhiệm vụ trong trại Đavít, ta liền “tương kế tựu kế”. Đến hẹn, anh chị em ta quân phục tề chỉnh, đội mũ tai bèo, valy xách tay. Điều này thì đối phương không có cách gì để cản trở và gây khó dễ. Về phía ta, đây là nhiệm vụ bí mật. Vậy nên các nhạc cụ mang theo đều được tháo rời và xếp gọn vào hành lý, riêng cây đàn bầu được cắt đôi, có bản lề để dễ tháo lắp khi di chuyển. Đầu tháng 12-1973, trong vai các “sĩ quan liên lạc”, toàn đội ung dung lên trực thăng di chuyển về Tân Sơn Nhất. Tại đây, sau khi có thêm 3 ca sĩ từ miền Bắc vào, Mộng Tước (Đoàn ca múa TCCT), Quang Đỗ và Ngọc Toàn (Văn công Hải quân), Thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn, Trưởng phái đoàn quân sự Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, quyết định thành lập Đội văn nghệ trại Đavít.

Cuộc hội ngộ trong trại Đavít. Từ trái sang, nhà báo Phạm Hồng (Phạm Phú Bằng, báo QĐND), nhạc sĩ Vũ Thành, ca sĩ Quang Đỗ

Vốn là nơi đồn trú dã chiến, trại này mang tên của James Thomas Davis, lính quân báo Mỹ bị chết trận khi đi càn ở Đức Hòa, tỉnh Hậu Nghĩa (nay thuộc Long An). Trước năm 1966, “Tổ viễn thám số 3” của Mỹ đóng ở đây. Các ngôi nhà làm bằng gỗ thông, được đưa từ Mỹ sang và cưa xẻ cùng một quy cách; mái lợp fibro xi-măng, nội thất toàn đồ bằng sắt. Không khí ở trại nóng như cái lò nướng bánh mì. Nằm sâu trong căn cứ sân bay Tân Sơn Nhất, xung quanh trại bao bọc bởi nhiều lớp rào kẽm gai, có vọng gác nhiều tầng do quân đội Sài Gòn canh giữ ngày đêm.

Với mưu đồ thâm hiểm “giam lỏng” Việt cộng, đối phương muốn cô lập, ngăn cản mọi cuộc tiếp xúc của 2 đoàn ta với người dân. Vậy nên, tất cả lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm phục vụ sinh hoạt, ta đều phải mua thông qua “nhà thầu” mà hầu hết đều là đám an ninh, tình báo, cải dạng.

Ngay khi vừa đặt chân đến Tân Sơn Nhất, trong phạm vi cho phép, nhạc sĩ Vũ Thành liền cử người tìm mua thêm một số vật tư như vải màu, giấy trang kim, dăm kèn, dây đàn, v.v… để dự trữ. Việc này, không qua được cặp mắt cú vọ của các “nhà thầu”, nhưng đối phương vẫn không hay biết là “văn công Vici” đã lọt vào hang ổ của họ. Ổn định tổ chức xong, toàn đội bắt tay xây dựng chương trình biểu diễn. Anh chị em trong đoàn chia nhau đến gặp riêng các phái đoàn Iran, Ba Lan, Hungari… để xin một số bản nhạc và dân ca của họ đưa vào chương trình tập luyện. Tất nhiên, là các đoàn này đều ủng hộ và nhiệt tình cung cấp.

Kỷ niệm ngày thành lập QĐND Việt Nam (22-12-1973), Đội văn nghệ xung kích tổ chức buổi biểu diễn ra mắt trong trại Đavít. Đến dự có 4 đoàn quốc tế, gồm Ba Lan, Hungari, Indonesia, Iran. “Tháp tùng” các đoàn này, có sĩ quan liên lạc của phía Mỹ và quân đội Sài Gòn.

Đội văn nghệ trại Đavít biểu diễn mừng ngày thành lập QĐNDVN

Chương trình mở đầu với bài “Miền Nam nhớ mãi ơn Người”, nhạc Lưu Cầu, do ca sĩ Kim Chi trình bày. Cán bộ, chiến sĩ ta lặng người khi những ca từ tha thiết ngân lên: “Dẫu núi có mòn, mà sông kia có cạn, miền Nam ơi, miền Nam nhớ mãi ơn Người thiết tha”. Tốp ca nữ hừng hực khí thế với “Sài Gòn quật khởi” của Hồ Bắc. Rồi bài “Cô gái vót chông” (nhạc Hoàng Hiệp, phỏng thơ Moloyclavi) chất liệu âm nhạc của núi rừng Tây Nguyên, gợi lòng yêu nước thiết tha, ngợi ca tinh thần dũng cảm và sự thông minh của đồng bào các dân tộc thiểu số dùng vũ khí thô sơ đánh giặc, bảo vệ buôn làng. Điệu lý “Ru con Nam Bộ” quen thuộc, nghe mênh mang sông nước và thắm đượm tình người. Không khí thêm phần sôi nổi, vui nhộn, khi Trọng Khanh ca bài “Con voi” của Nguyễn Xuân Khoát, rồi “Chiếc đèn cù” của Đỗ Nhuận. Diễn viên Thanh Lự trổ tài với một số tiết mục ảo thuật, được các đoàn quốc tế ngợi khen.

Với cây đàn accordéon, chị Tuyết Mai trình diễn điêu luyện bản nhạc Polonaise của nhạc sĩ thiên tài Ba Lan, Kleofas Oginsky; rồi kiệt tác “Phiên chợ Ba Tư” của nhạc sĩ lừng danh Albert William Ketèlbey. Tiếng đàn bầu của Phạm Hạng vút lên bản “Vì miền Nam” của Huy Thục, da diết, lắng sâu. Tình cảm Bắc Nam quyện hòa, thể hiện khát vọng sum họp của cả dân tộc. Một vị khách quốc tế đã tiến đến nắm tay nghệ sĩ Phạm Hạng và xúc động thốt lên: “Unimaginable! Wonderful Unique!” (Thật không thể hình dung nổi! Tuyệt vời! Thật độc đáo!).

Hôm sau, đài BBC đưa tin: “Thượng sĩ Vũ Thị Tường (bí danh của ca sĩ Mộng Tước), nhân viên tâm lý chiến của cộng sản Bắc Việt, giả danh là đầu bếp của phái đoàn Việt cộng, đã diễn ca rất điệu nghệ để cổ súy tinh thần cho 2 phái đoàn thi hành Hiệp định đình chiến của Bắc Việt và Việt cộng đồn trú ở trại Đavít trong sân bay Tân Sơn Nhất…”.

Đội văn nghệ xung kích với các đoàn quốc tế sau buổi biểu diễn

Hoạt động của Đội văn nghệ xung kích không chỉ đơn thuần là ca hát và biểu diễn nhạc cụ, mà còn bao hàm cả mảng đối ngoại văn hóa - quân sự cực kỳ quan trọng, góp phần làm cho các phái đoàn quốc tế hiểu sâu thêm về cuộc kháng chiến của nhân dân ta, nhằm tranh thủ mối thiện cảm của họ. Vì vậy, từ sau buổi biểu diễn chào mừng 22-12, hễ thấy có họp các đoàn quân sự là đội tranh thủ biểu diễn ngay, rất linh hoạt và mềm dẻo. Ngoài ra, anh chị em còn tổ chức biểu diễn các show nhỏ lẻ, phục vụ sĩ quan liên lạc của ta làm nhiệm vụ tại các chốt trên nhiều địa phương ở miền Nam trở về, hoặc đột xuất mỗi khi có cánh nhà báo nước ngoài đến trại tác nghiệp.

Việc văn công biểu diễn ngay trong trại Đavít khiến cho đối phương vô cùng tức tối và hằn học, nhưng trước sự khôn khéo của ta, họ không thể làm gì được. Lời ca và ngón đàn điêu luyện của các ca sĩ, nghệ sĩ - chiến sĩ, luôn nhận được sự hoan nghênh, tán thưởng của các phái đoàn quốc tế.

Nhạc sĩ Đại tá Vũ Thành và tác giả bài viết

So với 823 ngày đêm tồn tại của trại Đavít, thì 2 tháng lưu diễn của Đội văn nghệ xung kích là ngắn ngủi, song anh chị em đã vận hết “công năng”, biểu diễn hết mình và thường xuyên giữ nghiêm kỷ luật. Mọi hoạt động của đội đều tuân thủ nghiêm túc các quy định của lãnh đạo phái đoàn ta ở trại. Các nam nữ diễn viên luôn thể hiện tư thế hiên ngang và phong thái đường hoàng, chững chạc của Văn công QGPMN, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn bè quốc tế. Khi toàn đội kết thúc nhiệm vụ, rời trại Đavít, thì mùa xuân cũng đã sầm sập cận kề, người dân Sài Gòn hối hả chuẩn bị đón Tết Nguyên đán Giáp Dần 1974.

NGUYỄN LAN CHI

BÀI VIẾT NỔI BẬT