column_right getExtensions 1747575414-1747575414

column_right module news_latest

column_right module news_featured

column_right module news_by_category

column_right module news_by_category

column_right module news_by_category

column_right module news_by_category

column_right module banner

column_right prepare data 1747575414-1747575414

HỒN ĐÁ

HỒN ĐÁ

Đăng bởi: Admin Ngày đăng:15-04-2025

HỒN ĐÁ

Thương Thương

Đã khá lâu rồi tôi mới có dịp trở về thăm quê ngoại. Nơi đây cách thành phố chẳng mấy xa, nhưng bởi sự vô tâm và nhất là quỹ thời gian quý báu bị những tháng ngày bươn chải mưu sinh chiếm dụng, khiến tôi quên mất mình từng có một vùng quê đầy ắp kỷ niệm của tuổi ấu thơ.

Thời gian như nước chảy qua cầu, mọi ký ức có thể mờ phai, nhưng tiếng đục đá của ông ngoại khi người còn tại thế thì tôi không thể nào quên. Cứ mỗi bận về làng, thứ đón tôi đầu tiên ngay từ giữa cánh đồng là những âm thanh quen thuộc ấy vang rất xa, có khi vượt qua cả dòng sông Hệ nhờ những cơn gió đông nam từ biển thổi về. Mãi sau này, khi đã hơi lớn, tôi mới hiểu ra, đục đá cũng có nhạc điệu, thứ nhạc điệu chỉ những người có đôi tai nhạy cảm mới biết được từng cung bậc thanh âm của nó. Tôi lắng nghe, mỗi khi nêm sắt trong tay ông ngoại chạm vào mặt đá cùng những nhát búa lúc nhặt lúc khoan, dường như đều nương theo một quy luật nào đó mà chỉ những nghệ nhân cao tay nghề mới có được. Nhưng giờ ông đã về nơi nước Chúa, tiếng đục đá trầm trầm hay chát chúa cũng mãi mãi đi vào miền dĩ vãng, nhưng trong tâm trí tôi, đâu đây dư âm của một thời thỉnh thoảng vẫn vọng về.

Những ngọn núi đá vôi hàng nghìn năm tuổi nằm sát bên dòng sông tạo nên vẻ hoang sơ, huyền bí cho bức tranh thủy mạc Tam Cốc (huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình)

Quê ngoại tôi xã Ninh Hải, vùng ngoại ô của thành phố Ninh Bình, dải đất như chiếc vạt áo lượn theo dòng Hệ và nép mình bên chân núi đá. Và chính triền đá xanh granite ấy lại là nguồn nguyên liệu vô tận cho những làng nghề hai bên con sông một thời suốt ngày đêm râm ran tiếng gõ mái chèo đuổi cá.

Thiên nhiên thật khéo bày đặt, nhưng con người cũng khá khôn ngoan, biết lợi dụng trò chơi tạo hóa làm đẹp cho mình. Ừ thì đá, thứ vật liệu nặng nề, thô kệch, khó vận chuyển bắt đầu được xếp làm tường, xây nhà, làm hàng rào bảo vệ chống thú dữ. Đá còn được xây thành, đắp lũy ngăn trộm cướp và cao hơn nữa là chống giặc ngoại xâm. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Đinh Tiên Hoàng chọn Hoa Lư làm Quốc đô bởi xung quanh là những dãy núi đá trùng trùng điệp điệp khiến cho kinh thành Đại Cồ Việt bất khả xâm phạm.

Khoan hãy nói đến thời kỳ tiền sử cách nay mấy triệu năm mà người Việt cổ từng sử dụng đá làm thứ công cụ thiết yếu gắn liền với cuộc sống thường nhật như những mảnh tước đá, rìu đá, dao đá... Ngay ở thời ông ngoại tôi, nghĩa là chỉ ba bốn chục năm về trước thôi, những làng chài bên hữu ngạn sông Hệ vẫn sống được bằng nghề sản xuất cối xay đá, ang đá, chum đá, lăng mộ đá và sau hết là tượng đá. Ngày ấy, khách xa ghé thăm làng, ấn tượng đầu tiên của họ mang về phố thị là những âm thanh lạ tai từ tiếng đục chạm vào thớ đá. Những âm thanh tưởng như vô hồn mà lại thấm đượm tình người, níu giữ bước chân ai dùng dằng nửa ở nửa đi.

Nhà thờ đá Phát Diệm-Kim Sơn- Ninh Bình là một công trình kiến trúc lâu đời mang dấu ấn của những người thợ làng đá mỹ nghệ Ninh Vân

Nhưng rồi thời thế đổi thay, nền văn minh đá dần dần nhường chỗ cho văn minh nhôm, nhựa và inox. Như một lẽ đương nhiên, thời đại công nghiệp hóa, người ta không còn dùng những sản phẩm chế tác từ đá, thay vào đó là những đồ gia dụng hiện đại, tiện lợi. Đó cũng là nguyên nhân vì sao một làng nghề truyền thống lâu đời, nay chỉ còn lại đôi ba người làm việc một cách cầm chừng. Đến Ninh Hải bấy giờ, nếu muốn tìm lại mảnh hồn của cha ông để lại, bạn hãy đến những ngôi nhà tường đá. Số nhà ấy mỗi ngày một ít đi nhưng chúng là chứng tích hào hùng của một thời chưa xa.

Cũng như nhiều gia đình khác, ông bà ngoại tôi hành nghề hạ bạc. Cho dù suốt ngày lênh đênh trên sông nước, tận hưởng miền không gian quen thuộc giữa cánh đồng thơm nức hương lúa chín khiến tâm hồn phơi phới, nhưng ông vẫn bâng khuâng nỗi niềm riêng. Ấy là nỗi niềm về đá. Cho nên, vào những ngày mưa to gió lớn, nắng gắt hay đại hàn, khi không đi đánh cá, ông lại ra chái nhà, nơi có hàng chục tảng đá đủ mọi kích cỡ, đục đục đẽo đẽo. Từ những tảng đá ấy, tùy vào yêu cầu của người đặt hàng, qua bàn tay ông, dần dần hình thành cái cối giã, cối xay, Quán Thế Âm Bồ Tát, phật Di Lặc, đức Chúa Jesus, hay các bồn cảnh, chậu hoa... Nhìn những pho tượng đá qua bàn tay ông, từng nét đục tinh xảo, sinh động đến mức, tôi có cảm giác những sợi tóc đá như đang phơ phất bay mỗi khi có gió. Sau này, do có nhiều đơn hàng, ông bỏ hẳn nghề chài lưới chuyển sang công nghệ chế tác đá.

Có một lần tôi hỏi mẹ: “Nhà mình vốn dân chài lưới sao ông lại có thêm nghề đá?”. Nghe mẹ kể, tôi mới hiểu. Hóa ra, ngày ấy do quá nghèo, lại đông con, nghề chài lưới không đủ sống, các cụ phải cho ông đi làm con nuôi một gia đình làm nghề đá ở cách đây rất xa. Mãi sau này, khi đất nước được độc lập, các cụ làm lễ xin chuộc lại.

Về ở với ông ngoại, ngoài giờ học, tôi chỉ quanh quẩn bên ông. Từ những tảng đá sần sùi, nham nhở, qua bàn tay ông, chúng trở thành lung linh tràn trề sức sống. Bụi đá bám phủ đầy trên quần áo, khuôn mặt ông một màu trắng đục. Mùa đông còn đỡ, mùa hè, bụi đá theo mồ hôi chảy xuống đùng đục như những dòng nước tạo ra thạch nhũ ở các hang động karst. Ông kéo chiếc khăn vắt vai, lau qua rồi lại tay cầm đục, ngó nghiêng các góc. Bà tôi khi thì mang ra cho ông tích nước chè ủ ấm, lúc vài củ khoai luộc vừa chín tới. Có những hôm, nghe tiếng đục, bà liền kéo tôi sang nhà hàng xóm. Bà bật mí: “Khi nghe tiếng đục chạm vào đá âm thanh trầm trầm, ấy là lúc ông có điều gì trăn trở, suy ngẫm. Tiếng đục thanh là có niềm vui mới đến. Tiếng đục chát, gắt, là trong lòng ông đang có điều gì bực bội. Tiếng đục giòn, nhịp nhỏ, đều, tanh tách, ấy là khi ông có niềm vui, hoàn thành được ý nguyện”. Giờ thì tôi đã hiểu, tiếng đục chạm đá là thân phận, niềm vui, nỗi buồn của kiếp người. Nghe tiếng đá biết tâm trạng của người. Bà nói thế, tôi chỉ vâng dạ rồi cun cút đi theo. Những hôm như thế, bao giờ nghe tiếng đục trầm, vang hoặc thanh nhẹ bà mới đưa tôi về.

Hoàn thành thủ công những chi tiết nhỏ của bức tranh đá tứ quý

Vào một ngày, có chàng trai sang xin học nghề. Lúc đầu định từ chối, nhưng khi nghe tiếng đục, ông lắc đầu, thở dài, ngẫm nghĩ một lát, cuối cùng nhận vào thử việc. Nghe tiếng đục gắt, nặng trịch, ông bảo, người này trong lòng có điều gì bất an.

Một hôm, ông nói có việc phải đi vài ngày. Khi về mới biết, ngoại đi tìm hiểu gia cảnh của chàng trai kia. Anh ta quê ở Kim Sơn, đã ngoài hai mươi mà không một cô gái nào dám yêu. Cứ đến với ai, dẫn về nhà một lần là sau đó các nàng từ chối. Lý do là bởi cậu ta có bà mẹ tên Tịnh Bình đanh đá cá cày, giọng điệu chao chát, cái gì cũng chỉ bà ấy là nhất, cả làng né tránh, chả ai muốn dây.... Buồn vì gia cảnh, nghĩ tủi phận, chàng ta bỏ nhà ra đi. Đúng là phúc đức tại mẫu. Làm với ông ngoại được mấy tháng, người thanh niên tình nguyện đi bộ đội, được hơn một năm thì hy sinh trên mặt trận biên giới. Từ ngày ấy, tiếng đục của ông nặng chịch nghe có phần đau đớn.

Có điều rất lạ là, mỗi lần về quê, chỉ đến đầu ngõ là cả nhà đã biết. Mọi người bảo, chỉ cần nghe tiếng đục của ông là biết nhà có khách. Tôi hỏi, sao ông biết cháu về? Ông ngoại buông tay đục, cốc nhẹ lên trán tôi: “Bố cô, đá mách chứ ai”.

Từ ngày ông ngoại mất, tiếng đục nơi đầu xóm… ắng ngắt, chỉ các triền núi vẫn xám xanh sắc đá. Nơi nào vua Đinh luyện quân, cùng tướng quân Trần Lãm dẹp mười hai sứ quân, thống nhất giang sơn? Nơi nào ông ngoại tôi đã gửi hồn mình khi về với đá? Và nơi nào, chàng học trò của ông trở về với tiếng đục khi trầm trầm khi chát chúa?

Nhìn lên dãy núi xa xa, tôi nghe trong gió, có tiếng chạm đá vọng về trong tiếng ngựa hí, gươm khua từ những ngày vua Đinh hội quân đánh giặc Tống. Giấu trong sắc xam xám xanh xanh là hồn quê cùng tiếng chạm phận người lưu giữ.

Ảnh minh họa: Internet

BÀI VIẾT NỔI BẬT