TẾT QUÊ MỘT THUỞ
Tết quê một thuở
NGUYỄN LAN CHI
Quê nội của tôi ở làng Quang Dụ, xã Đức Quang, vùng đất lụt, xửa xưa thuộc huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Cái mảnh làng lở bồi trồi sụt đính bên hữu ngạn sông Lam. Làng tôi neo ngay dưới ngã ba Phủ, là nơi dòng La và dòng Lam hợp lưu trước khi xuôi về Hội thống. Phía tả ngạn, lừng lững Rú Thành soi bóng nước. Trên đỉnh núi vẫn còn dấu tích thành Trương Phụ, viên bại tướng giặc Minh, thế kỷ XV.
Ngày trước, chưa có giếng khơi, dân làng vẫn kín nước sông Lam về ăn, uống. Tắm rửa, giặt giũ, thảy đều ra bến sông. Trong họ tộc, tôi gọi Anh hùng Liệt sĩ Nguyễn Đô Lương bằng chú, người được nhắc đến trong bài “Gửi sông La” của nhà thơ Hoàng Thị Minh Khanh. Bài thơ được nhạc sĩ Lê Việt Hòa phổ nhạc, chắp cánh bay xa.
Xã Đức Quang gồm ba làng, nhưng chỉ độc làng tôi với xã Đức Vịnh (quê ông Hà Xuân Trường) là nằm trọn bên bờ sông Lam. Vùng ngoài đê, mỗi năm phải hứng chịu nhiều trận lụt. Những khi ấy, con sông trở nên hung hãn đến khiếp, nước bạc băng hà băng hải, tưởng đâu cả làng sẽ bị cuốn phăng ra biển. Bình thường thì mặt sông phẳng lặng, chấp chới những cánh buồm nâu lướt giữa dòng xanh biếc tựa màu da trời. Sông tải phù sa, tạo nên cánh bãi ngờm ngợp tốt tươi. Làng tuy không có ruộng liền thổ, nhưng đất đai thì như miếng tóp mỡ, mùa nào thức ấy. Nào chanh, cam, bưởi, quýt, nhãn, hồng… Đáng kể nhất là giống chanh hoàng niên, quả to, vỏ mỏng, nước mọng, chao ôi thơm. Khắp làng, ê hề ngô khoai, đậu lạc. Xanh ngát những bờ tre, bãi mía. Lạc cúc và lạc sen, cứ mượt mà, tốt bời bời.
Cữ heo may giáp Tết, cả làng vào mùa kéo mật. Các làng ven sông đều trồng mía, cung cấp cho Nhà máy đường Sông Lam ở ngay dưới chân Rú Thành. Từ khi nhà máy trở thành mục tiêu hủy diệt của không quân Mỹ, sản xuất tê liệt thì nơi nào trồng mía đều phải tìm cách tự giải quyết. May thay, làng tôi vẫn còn nhiều nhà giữ được bộ che gỗ trường, rồi thùng lóng và chảo năm, chảo bảy bằng gang tốt nguyên, cất kỹ, giờ được khui ra xem chừng đắc dụng. Hối hả làm lán, dựng che, chặt mía khuân về, cho trâu thay nhau kéo liên u liên minh. Ban đêm chỉ cần không để lộ ánh lửa ra ngoài là được. Đường làng, ngõ xóm ngập trắng bã mía, từng bầy ong bay lắc lứ, không gian như được ướp bằng mùi mật nưng nức, cảm giác trên tóc và áo quần lúc nào cũng dấp dính. Tiếng mõ che ngân dài lên bổng xuống trầm, du dương khi đêm về giá lạnh. Hễ người cầm che xướng lên “Nàng rằng: Phận gái chữ tòng. Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”. Lập tức người hốt bã mía phía sau che, thường là phụ nữ, hiểu ngay, sắp kiệt cùng một lượt mía rồi. Liền đặt lạt cột bã thành bó để lôi ra ngoài lán. Lạ một điều, xưa nhiều người làng không biết mặt chữ, nhưng lại thuộc nằm lòng hơn ba ngàn câu Kiều. Cứ người trước biết rồi truyền khẩu cho người sau ngâm ngợi mà thành. Chỉ những dịp cuối năm ngồi kéo mật, thì người ta mới hứng thả Kiều và khơi dậy nỗi niềm của nàng chinh phụ, tùy theo tâm trạng riêng. “Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy. Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu. Ngàn dâu xanh ngắt một màu. Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”.
Nhưng không phải ai cũng có thể ngồi cầm che và biết cách nấu mật. Chỉ những người giỏi cầm cày, cả đàn ông lẫn đàn bà, thì mới thạo và đủ can đảm ngồi cầm che đút mía, xoắn bã. Bởi nếu lóng ngóng sau khi lắp mõ, sẽ không biết cách chắp nối đống bã vụn sao cho đều. Nặng quá, che nghẹn ằng ặc, khiến trâu kéo bể vai, nhưng nhẹ hều thì không kiệt hết nước. Đã có người bị nát tay do thao tác vụng về khi cầm che. Làm ra được giọt mật quả lắm công phu. Mẹ tôi bảo, trồng mía là nghề xát xương, con ạ. Cực, nhưng dẫu sao còn có đồng ra đồng vào. Ba ngày Tết, ngoài các thức ra, có thêm bánh bột nếp ngào mật, màu sậm, dai giòn. Rồi kẹo lạc, chè kê, chè đậu… tất cả lấy mật mía làm dậy.
![](https://phunuquandoi.vn/apt-upload/image/data/thong-tin-can-biet/van-hoa-van-nghe/tan-van-hay/tet-que-mot-thuo/tet-que-mot-thuo-01.jpg)
Tới khi nghề trồng mía, nấu mật lụi tàn thì càng về cuối năm, người lớn thường lo đến bạc mặt. Dần dà tôi mới thấm câu nói: “Tết đến sau lưng, ông vải thì mừng, con cháu thì lo”. Không hiểu sao cái ngày ấy mùa đông chừng như dài hơn thì phải? Thời tiết trở nên hanh hao, cóng rét, thất thường. Mưa rắc rây, đường sá trơn như xối mỡ. Vòm trời u ám, xám ủng. Cây cối thi nhau trút lá, hàng xoan đâu chỉ còn trơ lại những cành khẳng khiu, gầy guộc. Cứ sau mỗi trận lụt thì su hào, bắp cải, rau diếp, cải thìa, cải củ, hành ngò… mướt mát xanh, bất chấp giá lạnh. Rồi gió mùa đông bắc tràn về, lạnh tái tê, rét từ trong ruột cuộn ra. Có manh áo tấm quần cũ vá chằng, vá đụp người ta cũng mặc, bởi vải càng dày thì càng ấm. Ngắm chiếc áo bông chần ô quả trám cũ sờn, bợt bạt của người già, mới thấy thương, thấy tội. Vậy nhưng đâu phải dễ ai cũng có. Hễ ra đường là gặp tùm hum áo tơi dày cộm để khỏi bị gió xô ngã. Những cặp chân trần mốc thếch như da rắn, tóp teo lồ lộ trong làng, ngoài ruộng. Có lẽ đó là những nét không thể giấu vào đâu của một thời khốn khó, đói ăn, thiếu ấm. Đúng là bụng đói thì cật rét.
Quanh năm, thức ăn chủ lực là “dưa, cà, nhút”; còn mặc thì phong phanh, nên lũ trẻ quê tôi thời ấy chỉ ngóng mỗi dịp nhà có giỗ chạp hay tết đến. Vì những lúc ấy nếu không được chén “thả ga”, thì chí ít cũng có chút chất tươi, thêm miếng thịt, cá, ấm chân răng. Và cảm thấy đời sướng đến vậy. Ấy là cái tuổi “ăn chưa no, lo chưa tới” thì nghĩ thế, có biết đâu để có được một cái tết đúng nghĩa thì mẹ tôi đã phải lo đến thắt cả ruột gan. Thành thử năm nào cũng vậy, cứ vào dịp đầu tháng Chạp, mặc dù đương bận rộn cắm mặt ngoài đồng xa, lo cấy đuổi cho xong vụ đông xuân, rét cóng tay chân, tím tái, nhưng về đến nhà, thấy mẹ ngồi thừ ra trên bậu cửa, mắt nhìn xa xăm, đăm chiêu nghĩ ngợi.
Để có được một cái tết tươm tất thì mọi thứ phải được chuẩn bị từ sớm theo kiểu “kiến tha lâu đầy tổ”. Ăn nhau ở vai trò bà nội tướng “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Thế nên, từ độ giêng hai, lắm nhà đã tính chuyện nuôi lợn, gây đàn gà, vịt, vừa để có thực phẩm tươi sống cân nộp “nghĩa vụ” trong năm và lấy công điểm, đến mùa vụ thì nhận vài chục cân thóc. Thể nào người ta cũng phải chọn một chú ỉn dành để vỗ béo, sau ngày tiễn Táo quân về trời trở đi, thì hàng xóm mấy nhà bàn nhau ngả thịt gói bánh, nấu đông, lấy chân giò ninh măng miến… làm cỗ Tết. Nhưng sướng nhất trần đời là được thưởng thức lòng dồi, món luộc nóng sốt, làm cút rượu nếp nút lá chuối, đưa cay, bõ một năm tất bật lo toan.
Quanh năm sống dưới tầm bom rơi đạn vãi, thú thật chả mấy ai dám nghĩ sẽ đón năm mới thế nào. Bởi sinh mạng của con người mong manh lắm, chỉ cần nghe tiếng gầm rú của máy bay phản lực Mỹ thôi, ngồi dưới hầm kèo chữ A hay đường hào giao thông, lắm người hồn vía treo ngược cành cây. Ai cũng chỉ cầu mong được bình an là đủ. Nên chi cái việc tết nhất bị hạ xuống hàng thứ yếu. Nhưng nói gì thì nói, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì dân làng tôi khi đó cũng không ai viện cớ dám phó mặc rồi bỏ bê chuyện hệ trọng. Bởi Tết Nguyên đán là dịp khép lại năm cũ, mở đầu cho một năm mới. Nên bao giờ nó cũng hết sức thiêng liêng và in đậm trong tâm thức mỗi người, cho dẫu họ có ở tận chân trời góc biển nào đi chăng nữa!
Có điều, nỗi lo cơm áo luôn đè nặng lên đôi vai của các bà nội trợ. Này nhé, ngoài phần “cứng” là khoản cây con “nhà trồng được” thì mỗi lần đi chợ phiên, mẹ tôi thường khởi động việc tích cóp hàng tết dần từ cữ tháng mười âm lịch, chứ không đợi vô một chạp mới mua. Bà cứ lẳng lặng sắm dần. Có khi gồng một gánh rau, củ, quả ra chợ, chỉ thu được một nắm tiền lẻ nhàu nát, chả dám mua đồng quà tấm bánh cho con, nhưng bao giờ cũng nhớ liễn trầu xanh với mấy quả cau và khúc rễ chay về cho mẹ chồng. Mua sớm, dễ lựa chọn mà giá cả lại mềm hơn chút đỉnh. Từ ít măng khô lưỡi lợn, đến bó miến dong, rồi nấm hương, mộc nhĩ, hạt tiêu… Kiến tha lâu cũng đầy tổ. Đến giữa tháng Chạp, khi mọi thứ đã hòm hòm đâu vào đấy, mẹ tôi vẫn còn lẩm nhẩm kiểm đếm xem còn thiếu thức gì để bổ sung trong phiên chợ cuối năm. Chỉ lựa mua vài bó lá dong với ống giang chẻ lạt gói bánh, gói giò, thêm ít hương trầm nữa là đủ.
![](https://phunuquandoi.vn/apt-upload/image/data/thong-tin-can-biet/van-hoa-van-nghe/tan-van-hay/tet-que-mot-thuo/tet-que-mot-thuo-02.jpg)
Kiểu gì, thì ba ngày Tết cũng phải có nồi măng hầm chân giò, đây là món chủ lực. Sau khi mổ lợn, có thịt làm nhân, ướp gia vị xong, mẹ tôi hông đậu xanh lòng rồi lấy ra vo từng nắm tròn nhỏ, còn cha tôi trải nong ra giữa nhà gói bánh chưng. Chẳng cần khuôn, ông cứ gói bộ, vậy mà mười chiếc như một chục, thảy đều vuông thành sắc cạnh và chắc khừ. Xếp từng chồng nom đến là thích mắt. Bao giờ ông cũng gói thêm một vài cái bé tẹo, gọi là bánh “đầu đày” dành cho lũ trẻ chầu rìa được nếm ngay khi nồi bánh chín. Chập tối hăm chín thì kiếm ba hòn đá to, quây chắn gió rồi chất củi gộc, nhóm bếp, bắc nồi bánh chưng, luộc giò. Lửa hừng suốt đêm, cánh đàn ông thay nhau canh nồi bánh sôi ùng ục, vừa để châm nước thêm, vừa gạt than bắc ké nồi măng ra bên cạnh. Có khi giải chiếu tụm nhau uống chè và chơi tú-lơ-khơ để giết thời gian. Đun tới canh ba thì rút bớt củi, chừng hơn một tiếng sau mới được vớt bánh. Đem dúng nhanh vào chậu nước sạch, lấy ra xếp lên bàn, kiếm miếng ván đậy lại, rồi đem chất cối đá hay vật nặng bên trên để ép cho bánh cho rốc nước, có vậy thì bánh chưng mới rền. Chiều 30 đã có bánh sắp lên bàn thờ gia tiên, cúng tất niên. Cái nếp ấy, thời yên hàn hay cả lúc giặc giã chiến tranh vẫn vậy.
Gói bánh chưng đi liền với giã giò để kịp bắc nồi luộc. Món này chỉ đàn ông lực lưỡng, khỏe tay mới làm nổi. Thịt nạc sau khi lọc hết mỡ, thái quân cờ cho vào cối đá, rắc tiêu, rồi quết. Hai tay, hai chày gỗ, cứ thi nhau giã phùm phụp liên hồi kỳ trận, tới lúc thịt nhuyễn sánh, dẻo mệt thì dừng. Véo một chút đưa lên mũi, ngửi mùi thơm là được. Làng tôi, khi giã giò, nhiều nhà vẫn thường gia thêm chút bột nếp hoặc bột gạo trộn đều, để khi quết thịt tăng thêm độ dẻo, độ dính. Có một dạo, tôi cứ thắc mắc, nghĩ hay tại quê mình nghèo nên độn thêm bột vào giò cho nhiều chăng? Tôi lấy làm lạ, hỏi thì cha tôi lắc đầu bảo không phải như con nghĩ đâu. Đói no chi cũng ba bữa Tết, chẳng lẽ ngả cả con lợn vài chục cân, lại thiếu thịt hay sao? Và kỳ lạ, khi cầm miếng giò mịn màng đưa lên miệng nhấm nháp, đọng lại nơi cần cổ, có đủ dư vị thơm, bùi, béo ngậy... và dai. Thời ấy đã làm gì có tủ lạnh, tủ đông, một cây giò nếu biết cách bảo quản vẫn có thể ăn được cả tuần mà không hề giảm hương vị. Hóa ra mỗi nơi người Việt bất kể giàu nghèo đều có một bí kíp riêng trong nghệ thuật ẩm thực.
Nhiều nơi có tục chặt tre dựng cây nêu. Làng tôi cũng không ngoài thông lệ ấy. Ba ngày Tết, nam thanh nữ tú chơi đu quay, ném vòng cổ vịt, hát hò đối đáp… Lũ nhóc, con trai mê đánh đáo, túi rủng rỉnh những đồng xu. Đám con gái xúng xính quần áo mới, rủ nhau xem hát, xem hội. Ngày nay, kinh tế khấm khá, đời sống gấp bội lần xưa, tiếc là nhiều trò chơi dân gian cứ dần mai một. Quê hương không còn đóng khung trong quan niệm cũ là nơi chôn nhau cắt rốn nữa, mà ở đâu “đất lành chim đậu” thì ở đấy chính là quê mới. Nhưng nỗi niềm đau đáu trong tâm tưởng các bậc cao niên, mỗi khi Tết đến xuân về, là mong mỏi con cháu đi ra bằng anh bằng em, song le không được quên nguồn cội, không quay lưng với nếp xưa của ông cha…
Ảnh minh họa: Internet