column_right getExtensions 1752498885-1752498885

column_right module news_latest

column_right module news_featured

column_right module news_by_category

column_right module news_by_category

column_right module news_by_category

column_right module news_by_category

column_right module banner

column_right prepare data 1752498885-1752498886

KHÁT VỌNG HÒA BÌNH

KHÁT VỌNG HÒA BÌNH

Đăng bởi: Admin Ngày đăng:03-07-2025

KHÁT VỌNG HÒA BÌNH

NGUYỄN MINH NGỌC

Từ lâu, qua sách báo, tôi đã hằng kính ngưỡng bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nữ tướng ngoại giao

 

Hào kiệt xứ Quảng

Từ xưa, quê hương bà Bình đã gắn với câu ca “Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm. Rượu Hồng đào chưa nhắm đã say”. Điện Bàn, quê nội trù phú với những đồng lúa phì nhiêu và bãi dâu xanh ngát bên sông Thu Bồn, có nghề ươm tơ, dệt lụa lâu đời. Ông nội, một nghĩa binh của phong trào Cần Vương, chống Pháp.

Trái lại, Tuy Phước, quê ngoại rất nghèo khó. Bà Bình là cháu ngoại cụ Phan Châu Trinh (1872-1926). Cụ là “Tứ kiệt” của đất Quảng Nam, bạn đồng khoa với cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cụ Phan là người đầu tiên ở Việt Nam đề xướng tư tưởng dân chủ, dân quyền. Nhiều năm ở Pháp, cụ có mối liên hệ mật thiết với Nguyễn Ái Quốc. Hiểu nguyên do mất nước, cụ Phan chủ trương “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Đó là một chủ thuyết lớn, đến nay vẫn còn vẹn nguyên giá trị. Cụ có hai người con gái, đầu lòng là bà Phan Thị Châu Liên, mẹ của nhà ngoại giao Phan Thị Minh (tức Lê Thị Kinh) và nhà văn Phan Tứ (Lê Khâm). Người thứ hai Phan Thị Châu Lan là thân mẫu của bà Nguyễn Thị Bình.

Vốn là một viên chức ngành trắc địa, ông thân sinh làm việc ở các tỉnh miền Tây Nam bộ, thường lênh đênh sông nước. Là con đầu, bà Bình chào đời ngày 26-5-1927 tại xã Tân Hiệp, thuộc tỉnh Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp), ba má khai sinh là Nguyễn Thị Châu Sa. Khi ông cụ được điều động sang Campuchia làm việc, đem theo cả gia đình. Châu Sa học trường Lycée Sisowath ở Phnôm Pênh, trường trung học lớn nhất của Campuchia thời bấy giờ, dạy bằng tiếng Pháp. Cô nữ sinh yêu nhạc Schubert, Schumann…, thích thể thao, nhất là môn bóng rổ, đã không nhịn lũ con Tây lếu láo miệt thị người bản xứ… Bấy giờ, một số anh em tốt nghiệp Trường Đại học Bách khoa, khoa Cầu cống được cử sang Campuchia thực tập. Ông cụ là người lâu năm trong nghề được phân công hướng dẫn thực tập. Trong số này có kỹ sư Đinh Khang, người yêu thể thao, chơi bóng bàn giỏi, bóng chuyền… Anh Khang và Châu Sa thường gặp nhau trên sân bóng rổ.

Má ốm và mất sớm, có lúc Châu Sa ước sau này làm bác sĩ, chữa bệnh cứu người. Nhớ lời ba, cô ráng học tốt, để có nghề nghiệp vững, sau còn lo cho em út. Nhưng rồi, những biến động của thời cuộc đã làm đảo lộn tất cả. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), người cha đưa gia đình về Sài Gòn. Không khí tổng khởi nghĩa hừng hực lan rộng, cả mấy cha con đều hoạt động cách mạng. Ông cụ tham gia Chi đội I miền Đông, cùng các anh em chí cốt lo công việc kháng chiến. Hễ các chú gọi giao việc gì thì Châu Sa làm việc ấy, nhờ biết tiếng Anh, cô được phân công đón tiếp đại diện Đồng minh tới Sài Gòn để giải giáp quân Nhật, nhưng không lâu. Người em thứ tư được cử sang Campuchia chuyển thuốc nổ về cho công binh xưởng chế mìn và lựu đạn, còn Châu Sa cùng người em kề mình đi Hồng Ngự (Đồng Tháp) lấy thực phẩm cho lực lượng vũ trang ta ở mặt trận miền Đông chiến đấu.

Bạn bè của ông cụ ở Campuchia khi chuyển về Sài Gòn, nhiều người không có nhà cửa, đã đến tá túc nhờ. Để nuôi sống mấy chục con người, Châu Sa đã phải làm đủ nghề, kể cả việc đi súc vỏ chai. Không chút nề hà, cô mở tiệm bán gạo, nước mắm, trứng vịt, cà chua, hành tỏi… để có chút thu nhập. Có lần gánh cà chua ra chợ Tân Định, cô thấy lính và cảnh sát Tây đi kiểm tra giá cả, ép một chị bán trứng vịt phải bán theo giá “nhà nước”, khiến chị này òa khóc tức tưởi. Cầm lòng không đặng, Châu Sa liền dùng tiếng Pháp đối chất với viên cảnh sát, khiến tên này cứng họng. Chị em tiểu thương ở chợ tròn mắt thán phục, họ rối rít cám ơn.

Hoạt động bí mật dưới vỏ bọc là một giáo viên dạy tư, Châu Sa dạy Toán cho nhiều nhóm học sinh luyện thi và có một thời gian dạy học ở Trường Colette, một trường Tây, dạy bằng tiếng Pháp. Từ cuối năm 1946, bà được giao tổ chức Hội phụ nữ Cứu quốc ở hộ 5, quận 3. Được kết nạp Đảng (1947), bà làm Thư ký, rồi Đoàn trưởng Đoàn phụ nữ Cứu quốc thành phố, Bí thư Đảng đoàn Phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn. Bà sinh hoạt chi bộ cùng Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, một trí thức lớn của đất nước. Bắt đầu từ đây, bà lấy bí danh Yến Sa.

Ra chiến khu, bà được tiếp xúc với nhiều đồng chí lãnh đạo Trung ương vào công tác tại Văn phòng Xứ ủy Nam bộ. Bà tranh thủ về Đồng Tháp Mười thăm người cha đang đảm trách Trưởng ban Công binh Nam bộ. Trở lại Sài Gòn, bà được phân công phụ trách một tổ tình báo, đồng thời làm thư ký cho Ban Cán sự Đảng nội thành. Tháng 4-1951, bà bị Hiến binh Pháp (PSE) bắt về tội “xâm phạm an ninh quốc gia”, giam ở bót Catinat khét tiếng và bị tra tấn dã man. Đêm đêm, tiếng chuông Nhà thờ Đức Bà vọng vào tận phòng giam. Tại đây, bà chứng kiến nhiều tội ác man rợ của kẻ thù. Theo sự bẩm báo của mật thám Nam Việt Nam trình lên mật thám Đông Dương thì người mang tội làm “điệp báo” có thể bị xử tử hình hoặc chung thân.

May sao, sau thời gian an trí, luật sư Nguyễn Hữu Thọ trở về Sài Gòn, kịp đứng ra biện hộ cho vụ án này, ông tích cực bảo vệ “thân chủ” đang ở khám Chí Hòa. Mãi sau này, bà mới biết còn có thêm sự can thiệp của những người từng quen biết cụ Phan Châu Trinh, ở trong Hội Liên minh Nhân quyền tại Pháp, đứng đầu là ngài Marius Moutet, cựu Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, người đã ký với Chủ tịch Hồ Chí Minh bản Tạm ước 14-9-1946. Nhờ sự nỗ lực của cả trong và ngoài nước, cuối cùng Yến Sa bị án tù treo. Được tự do, bà tiếp tục lao vào hoạt động.

 

Hòa bình, gia đình và sự nghiệp

Ngày 23-11-1954, bà tập kết ra Bắc. Thay vì tham gia phái đoàn liên hiệp đình chiến của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bà được điều về Hội Liên hiệp Phụ nữ Trung ương. Gặp được thân phụ ở Hà Nội, và nhất là gặp lại “mối tình đầu” Đinh Khang, chàng trai mà bà quen biết trên đất Campuchia, người đã dành cả tuổi trẻ chờ đợi. Suốt 9 năm trời đằng đẵng, bà chỉ nhận được mấy dòng chữ của ông: “Chúc em và cả gia đình an toàn, khỏe mạnh”, chứ không có gì hơn. Đến khi gặp nhau, ông nén lòng, trầm ngâm nhìn bà gầy ốm và hỏi “Em có khỏe không”. Bà kể, suốt đời mình, không bao giờ quên khoảnh khắc ấy. Bấy giờ, ông Khang công tác trong quân đội, đóng ở Quân khu Hữu Ngạn. Và một lễ cưới đơn sơ được tổ chức, do chính ông Nguyễn Văn Tạo - Bộ trưởng Bộ Lao động làm chủ hôn.

Ngày ấy, vừa nghe bác sĩ Phạm Ngọc Thạch báo có cháu ngoại cụ Phan Châu Trinh mới ra Hà Nội, Bác Hồ liền cho gọi tới gặp. Tại Chủ tịch phủ, Yến Sa được Bác ân cần trò chuyện. Trong đời, bà vinh dự được nhiều lần gặp Bác, lần nào Người cũng dặn dò, chỉ bảo. Tháng 4-1969, từ Paris về nước nhận chỉ thị mới, bà Bình được Bác Hồ gọi tới ăn cơm và hỏi về công việc đàm phán ở hội nghị, về kiều bào ta ở Pháp, ở Anh… Lời căn dặn quý báu của Người: “Dĩ bất biến ứng vạn biến” luôn soi sáng cho công tác ngoại giao và mọi hoạt động vì nước, vì dân của bà.

Bác Hồ với các cán bộ ngoại giao Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, trước lúc đoàn đi dự Hội nghị Paris, 1969

Vừa nuôi con thơ, bà vừa theo học tại trường Đảng Nguyễn Ái Quốc. Đầu năm 1961, lãnh đạo Ban Thống nhất sang Hội Liên hiệp Phụ nữ đặt vấn đề “mượn” Yến Sa 6 tháng hoạt động đối ngoại cho Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam. Có thể nói ngành ngoại giao đã chọn bà từ rất sớm và rất chuẩn. Sau khi dự Đại hội Sinh viên thế giới (UIE) ở Budapest (Hungary) rồi Đại hội Thanh niên dân chủ thế giới ở Leningrat (Liên Xô), chẳng những không được “trả” về cơ quan cũ, mà bà được giữ lại và làm một nhà ngoại giao chuyên nghiệp. Trách nhiệm rất nặng nề, nhưng vì miền Nam ruột thịt, không ai nỡ từ chối.

Ngày ấy, ở Ban Thống nhất, các cán bộ đều phải đổi tên để giữ bí mật. Một đồng chí lãnh đạo Ban gợi ý bà lấy tên là Bình, với nghĩa hòa bình, đi ra nước ngoài dễ tranh thủ cảm tình, đồng thời cũng dễ gọi. Bí danh Yến Sa của bà từ thời kháng Pháp, được đổi thành Nguyễn Thị Bình. Và cái tên này nhanh chóng trở nên quen thuộc với bạn bè quốc tế, nhận được sự ủng hộ và ngưỡng mộ của những người tiến bộ và yêu chuộng hòa bình ở nhiều nơi trên thế giới.

Phụ trách công tác đối ngoại nhân dân của Mặt trận, bà Bình có dịp tiếp xúc với lãnh đạo nhiều quốc gia, dân tộc. Từ 2 đại hội đầu tiên ở Liên Xô và Ba Lan, bà tham dự các hội nghị quốc tế từ châu Á, châu Âu, châu Phi, cả Mỹ la tinh. Ở đâu, hình bóng người phụ nữ nhỏ nhắn, duyên dáng và bặt thiệp, có vốn ngoại ngữ tuyệt vời, mềm dẻo và khôn khéo, cũng đều gây được thiện cảm lớn.

Gần 6 năm hoạt động đối ngoại, bà Nguyễn Thị Bình đã tích lũy được nhiều thứ, nhất là kiến thức ngoại giao và kinh nghiệm đấu tranh chính trị. Từ sau sự kiện xuân Mậu Thân, giới cầm quyền Mỹ buộc phải “xuống thang” chiến tranh và chấp nhận đàm phán tại Paris. Thực hiện chủ trương “đánh và đàm”, bà Bình tiếp tục được lựa chọn cho nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp và hết sức nặng nề này.

Trước khi rời Hà Nội vào cuối tháng 10-1968, bà điện báo cho phu quân từ trường Công binh về gặp. Nghĩ thương hai con còn nhỏ mà cứ phải xa mẹ biền biệt. Thương chồng bận công tác và thêm cha tuổi già đau ốm, việc chung và nỗi riêng, khiến cho bà Bình rối bời. May thay, ông Đinh Khang đã kịp động viên vợ: Em có việc quan trọng phải làm, cứ yên tâm. Ở nhà, các con đã có anh và ba lo.

Cao hơn cả tình nghĩa phu thê, ấy là tình đồng chí cùng chung lý tưởng sống và phụng sự cho Tổ quốc. Nhờ có “hậu phương” vững như bàn thạch, bà Bình bay sang Paris, đường hoàng bước vào cuộc chiến mới đầy cam go và thử thách. Từ phái đoàn của Mặt trận, đến Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, bà tham gia Hội nghị bốn bên về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam tại Thủ đô Cộng hòa Pháp. Đây là cuộc đấu tranh lâu dài nhất, nhưng cũng vẻ vang nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam. Với 202 phiên họp chung, công khai, 45 cuộc họp cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn… trong 4 năm 9 tháng (từ tháng 5-1968 đến tháng 1-1973), một kỷ lục hiếm có.

Trong 4 đoàn dự hội nghị, chỉ duy nhất đoàn của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam có phụ nữ. Đầu tháng 6-1969, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập, bà Nguyễn Thị Bình được cử làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, đồng thời làm Trưởng đoàn đàm phán tại Hội nghị bốn bên ở Paris. Bà thực sự không coi đó là niềm vui, mà cảm thấy trách nhiệm đè nặng lên đôi vai mình.

Người dân Paris, đặc biệt là kiều bào ta ở Pháp cùng đông đảo bạn bè quốc tế, đã quá quen thuộc với hình ảnh Madame Bình luôn xuất hiện với tà áo dài và nụ cười đôn hậu trên môi, ánh mắt đầy tự tin. Cả thế giới kinh ngạc, không thể cắt nghĩa nổi vì sao ở một đất nước đang từng ngày, từng giờ bị bom đạn tàn phá, hủy diệt, lại xuất hiện những chính khách truyền cảm hứng tầm cỡ đến vậy. Bạn bè tự hào, xen lẫn cảm phục và tin yêu “Việt cộng” quá đỗi. Bằng con đường ngoại giao, bà Nguyễn Thị Bình đã có nhiều và rất nhiều những người bạn quý, bạn lớn ở các quốc gia trên thế giới và họ cũng chính là bạn tốt của nhân dân Việt Nam.

Nụ cười của Madame Bình

Trung tâm Hội nghị quốc tế Kléber nằm gần Khải Hoàn Môn, một biểu tượng văn hóa, lịch sử đặc biệt của Kinh đô Ánh sáng, là nơi diễn ra những cuộc đấu lý căng thẳng và dai dẳng, song chân lý luôn thuộc về những người nắm tất yếu và có chính nghĩa. Nhiều tờ báo đã ví von một cách hình tượng, rằng: Madamme Bình là người phụ nữ can đảm “khiêu vũ giữa bầy sói”. Để trở thành một nhà ngoại giao thượng thặng, thì bên cạnh phẩm chất trí tuệ, sự lịch lãm, đòi hỏi khả năng ngoại ngữ siêu phàm. Ở bà Nguyễn Thị Bình, hội đủ tất cả những thứ đó. Thần thái tự nhiên mà rạng rỡ, mềm mỏng nhưng kiên nghị, có thể nói vẻ đẹp của bà là hình ảnh thu nhỏ của một “Nước Việt Nam từ máu lửa. Giũ bùn đứng dậy, sáng lòa” (Nguyễn Đình Thi).

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam

Trải qua đấu tranh bền bỉ và khôn khéo, đối diện với nhiều sự lật lọng xảo trá của đối phương, cuộc hòa đàm đã tới đích thắng lợi cuối cùng. Sáng 27-1-1973, Paris hừng nắng. Phòng họp ở Kléber rực sáng ánh đèn, bên ngoài một rừng cờ hoa vẫy chào. Đúng 10 giờ, 4 Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Nguyễn Duy Trinh), Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (Nguyễn Thị Bình), Mỹ (William P. Rogers), Việt Nam Cộng hòa (Trần Văn Lắm) ngồi vào bàn. Mỗi người đặt bút ký vào 32 văn bản của Hiệp định. Trong giây phút thiêng liêng ấy, bà xúc động thấy mình không đủ ngôn từ để bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với đồng bào và chiến sĩ cả nước đã chấp nhận mọi gian khổ hy sinh, chiến đấu, để có được thắng lợi to lớn; tri ân Bác Hồ kính yêu và Đảng quang vinh đã tin cậy giao phó sứ mệnh cao cả.

 

Trọng trách mới, tầm vóc mới

Đất nước hòa bình, non sông liền một dải, từ một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, bà Nguyễn Thị Bình được cử tri tín nhiệm bầu vào Quốc hội và được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Trước sự phân công của Đảng, có lúc bà cảm thấy mình như “đơn thương độc mã” đến một chiến trường mới lạ. Nhưng thái độ cầu thị đúng mực và sự khiêm nhường của bà đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của các cán bộ lãnh đạo ngành. Vẫn biết mọi thứ đều rất mới mẻ, khối lượng công việc quá sức lớn, nhưng bà xác định, khó mấy cũng quyết tâm làm cho kỳ được. Năm 1982, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, bà Nguyễn Thị Bình được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Làm Tư lệnh ngành giáo dục, trong bối cảnh đất nước vừa hòa bình lại phải đương đầu với 2 cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, kinh tế kiệt quệ, khó khăn chồng chất khó khăn. Sâu sát cơ sở, bà đề xướng cuộc “Nam tiến” đưa giáo viên miền Bắc vào chi viện cho các tỉnh phía Nam. Lãnh đạo Bộ kiên trì đấu tranh thuyết phục, để năm 1983, Nhà nước quyết định điều chỉnh thang lương cho ngành giáo dục và chế độ thâm niên, được coi như một “bước ngoặt” lớn. Với nhận thức phải đào tạo con em công nhân, để giai cấp công nhân vững mạnh, bà chỉ đạo và đôn đốc các chủ trương giáo dục của Bộ tại các khu công nghiệp. Hệ thống trường dân tộc nội trú được xây dựng trong thời kỳ này… Việc thực hiện cải cách giáo dục bắt đầu từ năm 1985 - 1991, xem như xong một vòng.

Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình

Sau 2 nhiệm kỳ làm công tác quản lý, tháng 7-1987, bà Nguyễn Thị Bình nhận chức Phó Trưởng ban Đối ngoại của Đảng, Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hòa bình, đoàn kết, hữu nghị; đồng thời, làm Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội. Trở lại hoạt động ngoại giao nhà nước, với bà vô cùng thuận lợi. Cả một núi công việc, song Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội có nhiệm vụ quan trọng là vận động các nước và các tổ chức Mỹ có cảm tình với Việt Nam yêu cầu Chính phủ Hoa Kỳ bỏ cấm vận…

Tháng 12-1989, ông Đinh Khang qua đời. Bà Bình hụt hẫng và cảm thấy cô đơn khủng khiếp. Lòng buồn, bà đã tính chuyện nghỉ ngơi, thì Tổng Bí thư Đỗ Mười đến thăm và cho biết ý định tiến cử của Bộ Chính trị. Khi nhận nhiệm vụ Phó Chủ tịch nước, dẫu đã 65 tuổi, nhưng nghĩ làm gì cũng vì đất nước, nên bà đảm nhiệm luôn 2 nhiệm kỳ (1992-2002). Đặc biệt quan tâm đến công tác tư pháp, bà trực tiếp kiểm tra xem xét cụ thể một số trường hợp, giúp minh oan cho nhiều người, kể cả án tử hình… Hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân công, bà Nguyễn Thị Bình được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.

Tháng 4-2003, Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam được thành lập, do bà làm Chủ tịch. Tiếp theo Chủ tịch danh dự Hội nạn nhân chất độc da cam Việt Nam, năm 2006, bà đảm nhận Chủ tịch Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh. Về hưu, nhưng nhà ngoại giao vẫn tiếp tục bận rộn.

Bên các con, cháu

Với 98 tuổi đời, 78 năm đứng trong hàng ngũ của Đảng, bà Nguyễn Thị Bình vững tin ở vận mệnh Tổ quốc, tin vào lớp trẻ. Bà đồng cảm với nhiều nhà hoạt động thế giới khi nhận định rằng thế kỷ XXI là “thế kỷ của phụ nữ”. Là hiện thân của vẻ đẹp trí tuệ Việt Nam, kiên trung bất khuất được un đúc qua hàng ngàn năm lịch sử, bà đặt trọn niềm tin và kỳ vọng lớn vào sự phấn đấu của các thế hệ phụ nữ Việt Nam.

Ảnh: TL và báo VietNamNet

BÀI VIẾT NỔI BẬT